Bài Diễn Văn của Ông Hoàng Minh Chính đọc tại
Đại Học Harvard, ngày 28-9-2005.
.................................................................................
Kính thưa Ông Giám đốc
Harvard University rất tôn kính,
Ông Lawrence H. Summers,
Kính thưa các Vị Giáo sư tôn kính,
Các bạn Sinh Viên, nghiên cứu sinh quí mến,
Trước hết tôi xin phép có lời trân trọng nhất vô cùng
cảm ơn Ông Giám đốc rất tôn kính, Ông Lawrence H. Summers, đã cho tôi
hân hạnh lớn nhất được báo cáo hôm nay trước các Quí vị tại trường Đại
học Harvard tiếng tăm nhất thế giới này.
Chủ
đề tôi xin phép báo cáo là “Chủ nghĩa Marx và hệ lụy”
được thu gọn trong Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản. Nhà bác
học tài ba Karl Marx tuy đã thành công trong việc phê phán mặt trái
của công nghiệp tư bản chủ nghĩa đặc biệt là với tác phẩm đồ xộ mang
tên “Tư Bản” của ông. Tuy nhiên ông lại không thành công trong
việc sáng tạo Chủ Nghĩa Cộng Sản.
Trên
bình diện lý luận:
Tác
Phẩm “Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản” do Marx và Engels cùng
viết năm 1847 đã được các đảng cộng sản và công nhân thế giới coi là
sách gối đầu giường – là Cương Lĩnh chính trị và kim chỉ nam cho hành
động của mỗi đảng cộng sản và của toàn thể phong trào cộng sản thế giới.
Nó có tác dụng rất to lớn trong việc hình thành các đảng cộng sản và
công nhân, tập hợp phong trào cộng sản thành Quốc tế cộng sản và ảnh
hưởng rất rộng lớn tới xã hội loài người trong một thế kỷ rưỡi qua.
Tuy
nhiên tác phẩm đó đã mắc những sai sót cơ bản.
Trước
hết, Marx và Engels tuyên bố rằng “Lịch sử tất cả các xã hội tồn
tại từ trước đến nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”.
Luận
điểm này đi ngược lại lịch sử phát triển khách quan của xã hội loài
người.
Con người cũng như xã hội tồn tại trước hết là do qui luật sinh tồn
phải hiệp lực cho mưu sinh và cải thiện thường xuyên cuộc sống vật chất.
Sản xuất và thương mại, khoa học và công nghệ ngày càng phát triển là
cơ sở vật chất và nền tảng của xã hội. Trên nền tảng cơ bản đó được
xây dựng thượng tầng kiến trúc là thể chế chính trị, giai cấp, nhà nước,
luật pháp, văn hóa, v.v..
Trên cái nền tảng vật chất đó, xã hội loài người đã thăng trầm trải
qua các nền văn minh đồ đá, đồ kim khí, máy hơi nước, v.v Chủ nghĩa
tư bản ra đời với máy hơi nước và điện năng nên chỉ trong vài trăm năm
đã vượt xa nhiều ngàn năm lịch sử loài người trước đó.
Ngày
nay nhân loại bước vào thế kỷ 21 của thiên niên kỷ mới với các khoa
học hiện đại phát triển như vũ bão, với kinh tế trí thức, công nghệ
vi tính - viễn thông, tổ chức thương mại thế giới (WTO) và Toàn Cầu
Hóa trên tất cả các bình diện đời sống xã hội. Thế giới ngày nay khác
về chất so với thế giới trước đây.
Còn những cuộc đấu tranh giai cấp thuộc các nền văn minh nông nghiệp
tuy rất dai dẳng nhiều khi rất dử dội, ác liệt và thăng trầm chẳng qua
chỉ là những phản ứng chính trị trên thượng tầng kiến trúc, không hề
ảnh hưởng tới nền tảng xã hội xét về bản chất. Các cuộc cách mạng nông
dân đó như những cơn bão giật hãi hùng qua đi mà không hề thay đổi được
cơ sở vật chất nền tảng của xã hội.
Tuy
nhiên các đảng cộng sản đã dựa vào luận điểm duy ý chí này của Marx
và Engels để tiến hành các cuộc cách mạng lật đổ, chiếm lấy chính quyền
như ở Nga Xô, Trung Hoa và Việt Nam.
Thì
rốt cuộc các chính quyền cộng sản này lại phải quay trở lại bắt đầu
từ đầu - tức là họ phải khôi phục lại cái nền kinh tế xã hội, tức nền
kinh tế thị trường, cơ sở khoa học, công nghệ, kỹ thuật của xã hội mà
họ đã phá bỏ bằng cách mạng giai cấp. Như vậy, các đảng cộng sản cầm
quyền đó đã phải trả giá rất đắt bằng nhiều thập niên tụt hậu, chưa
kể hao phí biết bao xương máu của nhân dân và tài sản của đất nước.
Một
luận điểm cơ bản khác nữa của Marx-Engels. Như Engels đã từng hết lời
ca ngợi rằng “Chuyên chính vô sản là sáng tạo vĩ đại nhất của Marx”.
Chuyên
chính vô sản đã được các đảng cộng sản cầm quyền vận dụng triệt để trong
giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Như
đã biết, trong tác phẩm Phê Phán Cương Lĩnh Gotha của Marx (năm 1875)
đã viết “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa,
là một thời kỳ cải biên cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia.Thích
ứng với thời kỳ ấy, là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của
thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản”.
Và đó cũng là nguyên tắc duy nhất Marx vạch phương hướng cho giai đoạn
xã hội chủ nghĩa - mà Marx gọi là thời kỳ cải biên cách mạng - để rồi
bước hẳn sang xã hội cộng sản chủ nghĩa. Ngoài nguyên tắc duy nhất và
trần trụi đó, Marx không nói gì được thêm nữa.
Vậy
là các đảng cộng sản cầm quyền coi Chuyên Chính Vô Sản là bửu bối tuyệt
hảo, là vũ khí chuyên chính tuyệt đối, đắc dụng, mạnh mẽ nhất để cải
tạo toàn bộ xã hội trên tất cả các bình diện kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hóa, xã hội, v.v. từ xã hội tư bản chủ nghĩa hoặc tiền tư
bản chủ nghĩa sang mô thức xã hội chủ nghĩa. Vậy là các đảng cộng sản
cầm quyền tùy nghi, duy ý chí sáng tạo ra xã hội xã hội chủ nghĩa bằng
chuyên chính vô sản cực đoan, hà khắc nhất, phi pháp nhất trong lịch
sử nhân loại. Và việc phá bỏ các cơ sở hạ tầng xã hội cũng như xóa bỏ
các kiến trúc thượng tầng đã được các đảng cộng sản tại các nước xã
hội chủ nghĩa tùy tiện, theo hứng thú cá nhân, thường khi là bốc đồng,
duy ý chí dùng các biện pháp bạo lực trấn áp, tịch thu, xóa sạch và
tòa án quần chúng, bất cần pháp luật và các nhà tù mọc lên khắp nơi
trong nước để xây dựng xã hội XHCN.
Một
điều nữa mà Marx coi là tội lỗi nhất và là cội nguồn của các cội nguồn
của chủ nghĩa tư bản mà Marx đã từng nhấn mạnh trong Tuyên Ngôn của
Đảng Cộng Sản là “Chế độ tư hữu”. Marx viết trong Tuyên Ngôn
ĐCS: “Chế độ tư hữu tư sản hiện thời, là biểu hiện cuối cùng và
đầy đủ nhất của những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này
bóc lột những người kia. Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể
tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: “Xóa bỏ
chế độ tư hữu”.
Từ
luận điểm này Marx chủ trương phải xóa bỏ giai cấp tư sản với tính cách
là giai cấp bóc lột cuối cùng một cách triệt để nhất. Để làm đuợc việc
đó Marx đã chủ trương xóa bỏ tất cả các hình thái kinh tế xã hội hiện
hữu để trên mảnh đất sạch sẽ đó mà xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Nhưng
từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội cộng sản chủ nghĩa theo Marx,
phải có một bước quá độ, cải biên cách mạng bằng chuyên chính vô sản.
Mà chuyên chính vô sản không là cái gì khác là bạo lực.Và bạo lực theo
Marx là: “Quyền lực chính trị, là bạo lực có tổ chức (của đảng cộng
sản bằng chuyên chính vô sản) để trấn áp các giai cấp khác, để tiêu
diệt những điều kiện tồn tại của sự đối kháng giai cấp, tức tiêu diệt
những giai cấp nói chung” (trích tuyên ngôn đảng cộng sản). Cái Logic
tư biện của Marx là cái mạch đi thẳng tắp một chiều: Từ đấu tranh giai
cấp dẫn tới chuyên chính vô sản để cải biên cách mạng xã hội mà bước
hẳn sang giai đoạn cuối cùng cao nhất là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Mà công cụ duy nhất hữu hiệu nhất là bạo lực có tổ chức của giai cấp
vô sản để trấn áp và tiêu diệt các giai cấp khác.
Marx
đã đặt công khai niềm tin tuyệt đối vào bạo lực. Trong tuyên ngôn của
ĐCS, tại lời kết thúc bản tuyên ngôn với lời lẽ thách thức và hiệu triệu
giai cấp vô sản thế giới, Marx viết: “Những người cộng sản công khai
tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo
lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành để thực hiện cuộc cách mạng
cộng sản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy những người vô sản chẳng
mất gì hết ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ dành được tất
cả thế giới. Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”
Học
thuyết tự biện của Marx mang tính phản lịch sử, phản khoa học, duy ý
chí, cực đoan cực tả nhưng lại phù hợp với giai cấp vô sản các nước
đang trong cơn thất vọng. Họ thấy chủ nghĩa cộng sản là cứu cánh, và
biện pháp bạo lực là thích hợp nhất với họ.
Các
ĐCS đã tận dụng Lời kêu gọi vang dội một thời lịch sử này để cướp chính
quyền và cầm quyền. Học thuyết cộng sản chủ nghĩa của Marx, quả đã làm
chao đảo xã hội loài người suốt cả thế kỷ XX với bao xương máu và biết
bao tài nguyên bị hủy hoại và nhiều nền văn hoá bị đẩy lùi cả nhiều
thập niên.
Chủ
nghĩa Marx (Chủ nghĩa cộng sản) trên bình diện thực tiễn:
Nhất
là tại các nước mà đảng cộng sản đang cầm quyền đều làm cơ bản như nhau
- mà mô hình Nga Xô là mẫu mực.
Nền chuyên chính vô sản dưới thời Stalin ở Nga Xô là biểu hiện tập chung
nhất của ĐCS cầm quyền thực hiện chủ nghĩa xã hội là bước quá độ cách
mạng lên chủ nghĩa CS. Chính thể độc đảng, chuyên chế, toàn trị, được
Stalin hoàn chỉnh. Đối tượng đàn áp của đảng toàn trị chẳng những chỉ
người có tư tưởng tư sản, mà cả giai tầng trí thức đều bị liệt vào danh
sách đen là có tư tưởng tự do dân chủ tư sản. CNXH thời Stalin trong
suốt 30 năm đã diễn ra các cuộc trấn áp, thanh trừng, khốc liệt. Dư
luận tới nay đều đã biết thời Soviet Stalin đã đàn áp trên 20 triệu
người vô tội, trong số đó 1/3 bị tử hình, 1/3 bị chết trong tù ngục,
số người sống sót trở thành tàn phế, tâm thần, trong đó đa phần là trí
thức.
Tại
Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa nền chuyên chính vô sản được đảng Cộng Sản
độc tài toàn trị thực thi triệt để nhất dưới thời Mao Trạch Đông trị
vì. Các đảng mang danh dân chủ và mặt trận ở Cộng Hoà Nhân Dân Trung
Hoa chỉ là những bông hoa giấy che phủ sự độc tài chuyên chế toàn trị
khét tiếng của đảng Cộng Sản Trung Quốc. Trải qua các phong trào cực
đoan cực tả kết hợp với đàn áp đẫm máu như trăm hoa đua nở, ba ngọn
cờ hồng đại nhẩy vọt, tập thể hóa nông nghiệp, thi đua dựng lò cao nấu
quặng tại công xã, cách mạng văn hoá v.v...do Mao khởi xướng. Nền kinh
tế và văn hóa của Trung Quốc đã bị tàn phá có tổ chức, đã bị đẩy lùi
nhiều thế hệ, chưa kể biết bao nhân tài trí thức và những người vô tội
bị bức tử và chết oan. Con số bị sát hại lên tới vài chục triệu người
trong khoảng gần 30 năm, từ 1949 tới 1976.
Tại
Việt Nam XHCN, nền chuyên chính vô sản và độc đảng cộng sản toàn trị
tồn tại suốt nửa thế kỷ nay.
Cái hình mẫu của chuyên chính vô sản VN chính là mô hình Nga Xô và nhà
nước chuyên chính vô sản Trung Hoa. Đảng CSVN và nhà nước VNCS có cái
tài vô địch là bắt chước những cái xấu, những mặt trái cực đoan, thâm
độc của hai ông anh nọ. Chính vì vậy mà khi Nga Xô đã bước sang thời
kỳ hậu xô viết từ đầu thập kỷ 90, thì Việt Cộng vẫn đang kiên trì định
hướng XHCN trên các bình diện chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá,
xã hội. Thậm chí Việt Cộng còn công khai hợp pháp hóa sự đàn áp dân
chủ và tôn giáo bằng các nghị định vi hiến. Thí dụ, Nghị định 31/CP
cho phép quản chế hành chính tới 2 năm, chẳng cần toà án xét xử, và
Nghị định 38/2005/NĐCP ngăn cấm hành đạo các tôn giáo độc lập, và vô
số những nghị định, văn bản chính quyền hoàn toàn vi hiến cực kỳ phản
dân chủ khác.
Nhà nước CSViệt Nam hiện nay không hề đổi mới chính trị mà chỉ tập trung
vào đổi mới kinh tế, với điều kiện là không phương hại gì tới nền tảng
chính trị của đảng, và nền tảng kinh tế sở hữu toàn dân, quốc doanh
chủ đạo là con bò sữa nuôi béo các cấp đảng và chính quyền cộng sản.
Nhân
đây tôi xin có lời hoan nghênh ý kiến của hai giáo sư Bruce Bueno de
Mesquita và George W. Downs viết trong bài “Phát triển và Dân chủ”
đăng trên tạp chí Foreign Affairs số tháng Chín và tháng Mười năm
2005 (Development and Democracy. Richer but not Freer).
Vâng đúng, rất đúng rằng phát triển có làm cho xã hội giầu hơn nhưng
xã hội không vì thế mà được tự do hơn. Tôi có thể đưa ra hàng loạt dẫn
chứng để đánh tan luận điểm hoang đường ở Việt Nam Cộng Sản rằng phát
triển và dân chủ là đồng hành. Thậm chí tôi còn dám khẳng định rằng
trong nhiều trường hợp ở Việt Nam hiện nay phát triển đi ngược chiều
với Dân Chủ Hóa, thậm chí lại là để củng cố vai trò toàn trị của đảng
cộng sản và chính quyền nhà nước, để tiếp tục lừa gạt, đàn áp nhân dân,
nhất là đối với giới dân chủ và các tôn giáo độc lập.
Các
đầu tư phát triển Quốc tế (FDI) và viện trợ phát triển (ODA) chẳng qua
thực chất là làm đầy túi tham của đảng cộng sản và chính quyền, giúp
nó giải quyết được những khó khăn bộc phát. Chỉ cần nhìn qua ngân sách
tiêu pha của nhà nước VN dưới mọi hình thái công khai biến tướng, ma
mãnh sẽ rõ. Ngân sách nhà nước trước hết phải nuôi bộ máy không lồ của
đảng cộng sản từ trung ương xuống điạ phương đễ giữ vững chức năng độc
tài toàn trị. Và ngân sách phải nuôi bộ máy nhà nuớc đồ sộ làm tay sai
chuyên chính vô sản của đảng. Bộ máy đó bao gồm: Quốc hội và các hội
đồng nhân dân, ủy ban các cấp, và bộ máy chính quyền hành pháp từ trung
ương xuống tận cơ sở. Rồi bộ máy quân sự và công an các cấp rất đông
đảo, mà chức năng chủ yếu là chĩa múi giáo vào trong nước, vào nhân
dân. Rồi bộ máy tuyên truyền khổng lồ từ ban tư tưởng văn hoá trung
ương xuống các cấp tuyên truyền và trên 600 tờ báo và cả trăm đài điạ
phương mà chức trách là để lừa dân, đầu độc dân lành. Ngân sách còn
phải nuôi các bộ máy tổ chức quần chúng của đảng từ trung ương xuống
điạ phương như Mặt trận tổ quốc và các tổ chức công, nông, thanh, phụ
để làm những cái loa phụ họa với đảng và chính quyền để củng cố nền
chuyên chính vô sản. Ngoài ra còn vô số các tổ chức khác mà ngân sách
chung phải chi. Tóm lại ngân sách nhà nước, oằn lưng ra mà nuôi béo
đảng và các bộ máy tổng thể của nhà nước, để cốt giữ cho vững được cái
nhà tù lớn là nước cộng hoà XHCNVN và cốt sao để các tù nhân các loại
gồm 80 triệu con người cam phận là tù nhân nô lệ, và cốt sao để an ninh
chính trị được bảo đảm. Như vậy phát triển là để củng cố các nhà tù
lớn nhỏ chứ đâu phải để mở rộng tự do dân chủ cho nhân dân.
Cuộc
đấu tranh của nhân dân VN hiện nay:
Xưa
nay lịch sử nhân loại cũng như của VN, giới trí thức vẫn là chim đầu
đàn là lực lượng dẫn đường đi tiên phong trong mọi cuộc cách mạng và
đấu tranh xã hội.
Vấn đề sở hữu ruộng đất nhà cửa tài sản hiện nay là một trong những
bức súc nhất của xã hội. Những người bị các quan tham cường hào mới
cướp đoạt ruộng đất của họ hàng chục năm nay bao gồm hàng triệu dân
oan đâm đơn khiếu kiện kéo nhau lên các cấp trung ương thưa kiện, các
cấp trung ương lại xua đuổi họ về điạ phương cho những kẻ đã gây tội
ác với họ làm quan toà xử kiện. Phẫn nộ trong nhân dân hiện nay dâng
lên như biển động sóng cao ngút trời. Dân oan, kéo nhau tìm tới các
nhà dân chủ để cầu cứu, các nhà dân chủ hỗ trợ vạch đường cho dân oan
biết các phương sách đấu tranh.
Dùng
chuyên chính vô sản, chính quyền Việt cộng đã gây ra nhiều vụ đàn áp
khốc liệt về hệ tư tưởng như các vụ cải cách ruộng đất, nhân văn giai
phẩm, xét lại chống đảng, cải tạo công thương nghiệp, bắt đi học tập
cải tạo nhiều chục nghìn sỹ quan và viên chức cộng hòa hàng chục năm
trời, các vụ đàn áp tù đầy quản chế vô thời hạn các nhà đấu tranh dân
chủ và chức sắc các tôn giáo, và nhiều vụ đàn áp đổ máu khác nữa.
Những
nhà dân chủ không chủ trương lật đổ, không làm bạo loạn, chỉ lên tiếng
phản đối kịch liệt các vụ đàn áp thí dụ như vụ biểu tình của hàng nghìn
người, và nổi dậy đấu tranh một cách hòa bình, có tổ chức, của hàng
chục vạn dân Thái Bình năm 1997, và các vụ biểu tình hàng vạn người
Thượng ở Tây nguyên mấy năm vừa qua. Vụ 2 giáo hữu Hòa Hảo tự thiêu
ngày 5-8-2005, để phản đối nhà cầm quyền cộng sản đàn áp tôn giáo đã
gây chấn động dư luận trong nước, hải ngoại và quốc tế. Những nhà dân
chủ lâu nay đòi hỏi chính quyền cộng sản phải chấp nhận đối thoại công
khai, dân chủ, bình đẳng để chấn hưng đất nước. Các chức sắc tôn giáo
như tin lành, hòa hảo, công giáo, phật giáo, nhất là Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất và những tôn giáo khác đều lên tiếng mạnh mẽ đòi
tự do tôn giáo.
Sự liên kết các tiếng nói đòi tự do dân chủ, tự do tôn giáo, đang thành
một phong trào, một mặt trận thống nhất toàn quốc cho Dân Chủ Hoá đất
nước.
Đồng bào VN ở hải ngoại đã thành lập nhiều hội đoàn, đảng phái nhằm
chấn hưng đất nước đang có xu hướng liên kết thành 1 phong trào dân
chủ VN hải ngoại đặng hợp nhất với phong trào dân chủ VN quốc nội, thành
một Phong Trào Dân Chủ Việt Nam Thống Nhất. Tiến trình này sẽ là bước
ngoặc lịch sử cho sự nghiệp đấu tranh dân chủ hoá đất nước.
Cuộc
đấu tranh vì tự do dân chủ của VN được sự hỗ trợ vô tư rất quan trọng
và hiệu quả của các chính phủ và quốc hội các quốc gia dân chủ âu Mỹ
như Hoa Kỳ, Liên Hiệp Châu Âu (EU), Úc, Nhật Bản, v.v. Các tổ chức quốc
tế vì quyền con người, các tổ chức quốc tế phi biên giới và không chính
phủ (NGO) đã hỗ trợ rất mạnh mẽ cho công cuộc đấu tranh vì nhân quyền
và tự do tôn giáo của VN. Sự liên kết của đấu tranh giữa nhân dân trong
nước với đồng bào hải ngoại và kết hợp với hỗ trợ quốc tế cần phải được
đưa lên cấp độ cao hơn, mạnh mẽ và hữu hiệu hơn ngõ hầu buộc chính quyền
Việt Nam phải giảm hẳn và chấm dứt đàn áp dân chủ và tôn giáo.
Phong
trào dân chủ VN với người đại diện là giáo sư Trần Khuê đang nỗ lực
liên kết các lực lượng dân chủ trong nước và phối hợp với phong trào
dân chủ hải ngoại với người đại diện là bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi thành
một Phong trào Dân Chủ Việt Nam Thống Nhất lấy mục tiêu tối thượng là
tự do dân chủ hóa đất nước làm nền tảng liên kết thống nhất.
Hiện
nay trong bối cảnh quốc tế Toàn Cầu Hóa trên các bình diện và Dân Chủ
Hóa toàn thế giới, thì VN nhận được rất nhiều thuận lợi.Tuy nhiên vì
tính chất xảo quyệt và rất ngoan cố của chính quyền cộng sản VN, nên
cuộc đấu tranh của nhân dân VN còn nhiều cam go. Sự đoàn kết thống nhất,
kiên trì và dũng cảm đấu tranh của đồng bào trong nước và hải ngoại
và sự hỗ trợ nhiệt tình và khẳng khái của Quốc Tế, là đảm bảo vững chắc
tuyệt đối cho thắng lợi vẻ vang của nhân dân VN.
Kính
thưa Ông Giám đốc Đaị Học Harvard,
Ông Lawrence H. Summers rất tôn kính,
Kính thưa các Vị Giáo Sư tôn kính,
Các bạn Sinh Viên, nghiên cứu sinh quí mến,
Tôi
rất sung sướng và vô cùng cảm ơn
được Quí Ông Giám đốc rất tôn kính,
các Quí vị Giáo sư tôn kính,
và các bạn sinh viên, nghiên cứu sinh
lắng nghe và cho tôi được lĩnh hội những lời chỉ bảo quí báu.
Tôi
xin phép được một lần nữa rất trân trọng cảm ơn Ông Giám đốc Lawrence
H. Summers rất tôn kính, các Quí Vị Giáo sư tôn kính, và các bạn sinh
viên, nghiên cứu sinh yêu quí.
Xin
Kính chào,
Hoàng
Minh Chính
Đại Học Harvard
Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ
Ngày 28 tháng 9 năm 2005