545 E. Saint John St.
San Jose, CA 95112
USA

Tel: (408) 998-0508

Fax: (408) 993-0527

Email:

saigonusanews
@yahoo.com


 

B Ì N H    L U Ậ N

HÃY TRẢ LẠI SỰ THẬT CHO LỊCH SỬ:
Người Chiến Sĩ VNCH Đã Chiến Đấu ra Sao?

Phan Đức Minh
(Mến tặng các chiến hữu và những người bạn trẻ cuả tôi)
Nhiều bạn trẻ, người quen hỏi tôi: Bác nghĩ sao về chuyện báo chí, tin tức trên Internet, nhất là trên trang Web của Fox News ngày 27-9-2004, khi thời gian vận động bầu cử đang sôi nổi, nghiêng ngửa, loan tin: trong cuộc phỏng vấn Tổng Thống Bush, Bill O’Reilly có hỏi Tổng Thống vài câu, trong đó có câu như sau:

O’Reilly: Người Nam Việt Nam không chịu chiến đấu cho tự do của họ, đó là điều tại sao họ không có nó (tự do) hôm nay. Có phải vậy không? (The South Vietnamese didn’t fight for their freedom, which is why they don’t have it today. Is that right?)

T.T. Bush: Đúng thế (Yes !)



Trời đất, quỷ thần ơi ! Tôi không muốn nói năng đụng chạm tới vị đương kim Tổng Thống của tôi (vì tôi là dân Mỹ chính cống, ít nhất cũng từ thắt lưng trở lên) trong giai đoạn Ông đang "đánh vật tóe khói, xẹt lửa ra với đối thủ John Kerry của ông trong cái thế nhiều khó khăn, nguy hiểm, dù đối thủ của Ông không phải là nhân vật tài ba xuất chúng" mà tôi thì lại chẳng thích Ông Vua phản chiến, John Kerry, người đã từng nhục mạ, quốc gia, quân đội Hoa Kỳ, kể cả Việt Nam Cộng Hòa nữa, giúp cho cộng sản quốc tế thanh toán gọn lẹ Nam Việt Nam không phải trên các mặt trận ở Việt Nam mà là ngay trên đất nước Hoa Kỳ rối loạn, nát bét như tương Tầu, từ Quốc Hội, đến các trường Đại Học cũng như trên đường phố... Quân Dân Nam Việt Nam khổ sở, điêu đứng, nhục nhã biết chừng nào khi Sài Gòn rơi vào tay cộng sản, họ phải tìm mọi cách chạy khỏi đất nước mà mình đã từng bao năm đổ xương đổ máu ra bảo vệ lấy nó.

Cùng với hàng triệu người khác, riêng phần tôi, phải lên núi lên rừng sống trong cảnh kinh hoàng trong 5 trại tù cải tạo hơn 12 năm, lắm lúc không thể nào tin rằng mình có thể sống nổi, vì tội của tôi là đã từng chiến đấu chống Pháp trong hàng ngũ cộng sản gần 7 năm ngay khi cuộc chiến bùng nổ, với tất cả con tim của tuổi trẻ yêu thương đất nước, giống nòi, rồi vì có nhiều cơ hội để hiểu rõ cộng sản không phải là những người như tôi đã tưởng, cộng sản là loại người tôi không thể chiến đấu chung với họ, mà tôi phải tự nguyện nằm chờ trong ruộng lúa ở Huyện Tiên Hưng, Tỉnh Thái Bình, chờ cho Quân Đội Pháp trong cuộc hành quân đại quy mô đến bắt, nhốt vào trại giam, nhà tù để thoát khỏi hàng ngũ cộng sản mà không làm liên lụy đến anh chị em ruột thịt, thân nhân, bạn bè của tôi còn lại trong hàng ngũ kháng chiến... Trước đó, tôi đã bị Tây bắt 1 lần rồi nên tôi biết và không sợ Tây bắt bỏ tù bằng ghê sợ phải ở lại trong hàng ngũ cộng sản. Sau đó,tôi lại thêm cái tội là tôi có hơn 20 năm trong hàng ngủ Quân Đội Nam Việt Nam, chống cộng sản... Hôm nay, ở đây, tôi không nói không được về chuyện... "Ông số I nước Hoa Kỳ" nói năng, rồi phán "Yes !" như đã kể trên. Thế mới khổ ! Đọc tin trên Internet, ta thấy nhiều bài viết, chỉ trích nặng nề T.T. Bush về cái tiếng "Yes !" đó, mà có người đã không tiếc lời nói về Ông: nào là Ông được ô dù che đỡ để né (hơi nhẹ hơn trốn một tí) quân dịch, không đi đánh trận ở Việt Nam thì Ông biết chi về cuộc chiến tranh đó mà dám... Yes ! tưới hạt sen, hạt dưa như thế. Ông là Tổng Tư Lệnh Quân Đội một nước hùng cường nhất thế giới mà không chịu học hỏi về chiến tranh, nhất là chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến tranh mà quân đội Hoa Kỳ lần đầu tiên bị đánh bại, phải tháo chạy bằng mọi giá, chịu mất cái "Tiền đồn chống Cộng ở Á Châu" với 58 ngàn quân tử trận, hàng trăm ngàn bị thương, hàng triệu người đau khổ, mất mát người thân, đất nước xáo trộn, nhân tâm khủng hoảng... Ông không hiểu gì về cuộc chiến Việt Nam, trong đó nó dậy cho người ta bài học rõ ràng "Muốn đánh chiếm một quốc gia, giữ được sự đánh chiếm đó, ít nhất phải có kế hoạch, chính sách không hoàn toàn giống như cộng sản quốc tế và Hà Nội thì cũng phải tương tự như thế, thay đổi đi đôi chút cho nó văn minh, nhân đạo hơn mới được". Ông không chịu học hỏi Binh Thư (Books on Warfare) cho nên cuộc chiến ở Iraq tất nhiên là phải thắng chớp nhoáng trong việc lật đổ chính quyền Saddam Hussein, nhưng tới lúc này nó mới tùm lum ra như thế, rắc rối hơn cả lúc còn lão Saddam, không thuốc nào chữa nổi, kể luôn cả... Viagra 100 mg,

Vậy mà Ông lại cứ tưởng là "nó xong ngon lành" kể từ ngày 1-5-2004, khi Ông diện bộ đồ phi công đáp máy bay phản lực xuống cái Hàng Không Mẫu Hạm to bự chảng, có chăng cái biểu ngữ viết 2 chữ "Mission accomplished - Nhiệm vụ đã hoàn thành" Tôi thiệt là buồn, nhưng chỉ nói lên ở đây một vài nét nhỏ để trả lời những bạn trẻ và những người đã hỏi tôi để chứng minh rằng: từ trước tới nay rất nhiều kẻ thích nói ẩu, nói láo, lầm lẫn, hay cố tình với ác tâm, ác ý bôi nhọ Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà. Họ đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ cuả những vụ xuống đường biểu tình chống chiến tranh Việt Nam cuả giới sinh viên Đại Học, mà cái tổ phát xuất cuả nó từ Trường Đại Học Kent State Unuversity do 1 Giáo Sư, cán bộ cuả Đảng Cộng Sản Mỹ, lãnh đạo, chỉ huy theo kế hoạch cuả Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, với sự tham gia đắc lực của Cô đào chiếu bóng hám nổi danh bằng con đường tắt là Jane Fonda, và cả đương kim Nghị Sĩ Liên Bang kiêm Ứng Cử Viên Tổng Thống John Kerry đã được cộng sản Hà Nội tuyên truyền, nhồi sọ. Ông số 1 của tôi, đã nhiều lần nói ẩu để cho các vị cố vấn của Ông cứ phải giải thích vòng vo Tam Quốc hoài, phen này có thắng cử hay không cũng nên cẩn thận, đắn đo trước khi nói năng những điều quan trọng. Số Ông hên lắm, keo trước được it cử tri tín nhiệm hơn nhiều, nhưng vẫn thắng đối thủ nhờ vụ bầu cử "tùm lum tà la" ở Tiểu Bang Florida do em Ông làm sếp sòng, và nhờ quyết định của Tòa án cho nên Ông đã bước vào Tòa Bạch Ốc trong một buổi sáng mưa gió buồn thảm, bên đường có vô số dân chúng cầm biểu ngữ bêu xấu sự thắng cử của Ông. Keo này Ông vẫn có nhiều cơ may thắng lần nữa vì cái số Ông nó như vậy. Ông đang từ vị trí rất cao đầu mùa vận động bầu cử, cứ thụt xuống dần dần tới mức nghiêng ngửa so với một đối thủ không xuất sắc chi cả, vì ông không biết, không hiểu nên mắc quá nhiều sai lầm trong việc lãnh đạo chiến tranh.

Bao nhiêu cựu Tướng Lãnh, kể cả cựu Tướng tài ba Colin Powell, đương kim ngoại trưởng đã chỉ cho Ông, nhưng Ông đâu có chịu nghe, chịu học. Bao nhiêu người từng cộng tác với Ông đã phải ra đi vì không chịu nổi tinh thần thiếu phục thiện, không biết lắng nghe lẽ phải của Ông. Tướng 4 sao Tommy Frank, Tư Lệnh chiến trường Iraq 2003, đánh thắng xong, phải xin giải ngũ, về hưu ngay để giữ được tiếng thơm là "Danh Tướng đánh thắng Iraq 2003" vì ông ta biết rằng ở lại, theo đuổi sách lược hậu chiến (Afterwar Policy & Strategy) của vị Tổng Tư Lệnh thì Ông Tướng 4 sao đó sẽ trở thành "Đại Tướng tê bại xuội liệt sĩ". Do đó Ông T.T. nhà ta cũng nên học hỏi về chiến tranh để làm Tổng Tư Lệnh một quân đội hùng mạnh, võ trang tân tíến nhất hoàn cầu. Ông nói: mục tiêu chính yếu để bảo vệ Tự Do, Dân Chủ của Ông là chống khủng bố toàn cầu mà đánh thắng ở Afghanistan (chuyện cò con tất nhiên phải thắng) vấn đề hậu chiến chưa đâu vào đâu cả, Lão Osama Bin Laden Lãnh Tụ thứ thiệt của phong trào khủng bố toàn cầu và Bộ Tham Mưu của hắn bị dồn vào tử địa cuối cùng ở vùng rừng núi Tora Bora, Ông chỉ cần cho 2 Sư Đoàn (Divisions) gồm Bộ Binh, Dù, Biệt Kích với 1 Trung Đoàn (Regiment) Pháo Binh, cùng với vài đơn vị cấp Đại Đội (Company) người địa phương Iraq do Mỹ huấn luyện đổ vào đây, siết chặt vòng vây, truy lùng, là trong 1,2 tuần tối đa, quân của Ông sẽ nắm đầu Lão Osama Bin Laden, có khi hắn không kịp tự sát nữa. Phong trào khủng bổ sẽ như rắn mất đầu, có quậy cựa được cũng chẳng ra chi. Vai trò Lãnh Tụ của những thứ chiến tranh quái gở này rất là quan trọng, mất lãnh tụ nổi bật là đám bộ hạ lau nhau tranh giành quyền lực, chia bè lập phái ngay lập tức... Vậy mà Ông bỏ đó, giao nhiệm vụ bắt Bin Laden cho những người thích che chở cho hắn hơn là tóm cổ hắn. Tự ái dân tộc, quốc gia, tôn giáo kia mà ! Ông vội vàng dốc toàn lực vào việc đánh Lão Saddam Hussein, đâu có liên hệ trực tiếp, cấp thời, nguy kịch ngay trong vài ngày, 1 tháng đến an ninh của Hoa Kỳ cũng như thế giới, để làm một cuộc chiến hấp tấp vội vàng, hư hỏng tất cả mọi mặt về quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, hết tiền bạc, thiệt hại nhân mạng không cần thiết, nhân tâm ly tán, chống đối từa tựa như hồi chiến tranh Việt Nam. Saddam Hussein bị nắm đầu mà tình hình Iraq cứ như đánh nhau lại từ đầu, khó khăn, rắc rối hơn vì Iraq nay không là của riêng Saddam Hussein mà đã trở nên "Tiền đồn chống Mỹ" của khối Ả Rập, của Hồi Giáo, nhất là những Giáo Phái cực đoan, quá khích, quyết đánh đến người cuối cùng, đánh muôn năm, có chết cũng chẳng có gì để nuối tiếc mà còn được... lên thiên đàng với Đấng thiêng liêng của họ. Quân ta thì có vô số người văng tục chửi thề cuộc chiến... vô chính nghĩa, vô chính sách, có kẻ đào ngũ, không muốn đánh nhau nữa, bây giờ lại có cả đơn vị thuộc lực lượng "quân vận, tiếp tế" lực lượng dễ bị phục kích, tấn công nhất vì hỏa lực phòng thủ, tự vệ không như đơn vị tác chiến, được phái lên đường đi Iraq làm nhiệm vụ, đã không tuân hành quân lệnh, đi tù thì tù cả đám với nhau chớ không đi đâu nữa cả... Chết thật !

Hết chỗ nói mất rồi!

Hồi chiến tranh Việt Nam, Cộng Sản Quốc Tế biết rằng đánh thắng Hoa Kỳ trên chiến trường Việt Nam thì khó, nhưng đánh thắng Hoa Kỳ tại Quốc Hội, trên đường phố, ở các trường Đại Học, trên mặt trận truyền thông bằng thứ "Chiến tranh tâm lý" thì không khó lắm. Bởi thế cho nên công cuộc lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chiến tranh Việt Nam, góp phần đập tan tinh thần chiến đấu, quyết thắng cuả Quân Đội Mỹ - vốn có từ xưa - trong cuộc chiến Việt Nam phải được giao cho 1 Giáo Sư Đại Học có uy tín và là cán bộ cao cấp cuả Đảng Cộng Sản Mỹ. Sự việc này chỉ được người ta biết đến khi vị Giáo Sư lãnh đạo phong trào sinh viên biểu tình chống chiến tranh Việt Nam này từ trần, có Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Mỹ dự tang lễ, đọc điếu văn, nêu cao thành tích cuả người quá cố, đã góp công sức vào việc chấm dứt chiến tranh Việt Nam theo đường lối, kế hoạch cuả "Phong trào Cách Mạng Vô Sản thế giới".

Nhiều người đã đánh giá toàn thể Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà qua hành động xấu xa cuả một số Sĩ Quan cao cấp đích thân, hay cho vợ con, đệ tử lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, nhất là giai đoạn Mỹ đổ quân tác chiến vào Việt Nam (sai lầm chiến lược) để buôn lậu, làm áp-phe tiền bạc bằng nhiều cách. Họ đánh giá Quân Đội VNCH qua hình ảnh tan rã cuả nhiều đơn vị quân đội vào những ngày cuối cùng cuả cuộc chiến, mà kẻ gây ra tình trạng thê thảm này đích danh thủ phạm là Ông Nguyễn Văn Thiệu, một Tướng Lãnh làm Tổng Thống kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Đội VNCH, ra lệnh cho Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Khu 2, và Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Khu I - một Tướng Lãnh từng được kể vào hàng Danh Tướng cuả Thế Giới - phải bỏ Quân Khu I lúc chưa đánh nhau chi cả và các đơn vị quân đội cuả 2 Tướng này đang sẵn sàng chờ địch tiến đánh, với tinh thần rất cao, như họ đã từng đánh bại quân cộng sản trên lãnh thổ 2 Quân Khu này. Ông Thiệu ra lệnh bỏ 2 Quân Khu này khi chưa chạm địch để làm áp lực, lôi kéo người bạn Đồng Minh khổng lồ (đang tháo chạy bằng mọi giá) quay trở lại cứu Nam Việt Nam. Nếu không, "Tiền đồn chống cộng sản cuả Mỹ tại Đông Nam Á Châu sẽ xụp đổ". Tổng Thống Mỹ Richard Nixon đã hứa với nhân Mỹ là chấm dứt chiến tranh Việt Nam, đem quân đội Mỹ trở về trong danh dự, trả người thân về với gia đình cuả họ rồi còn đâu nữa. Qua trung gian cuả Tổng Thống Hồi Quốc, Ông Nixon cho Cố Vấn Henry Kissinger dọn đường cho Ông Nixon gặp Mao Trạch Đông, lãnh tụ Cộng sản Trung Quốc. Họ Mao với sức mạnh cuả Sư Phụ, với uy thế cuả Ông Thầy bao nhiêu năm trợ giúp cố vấn, vũ khí chiến tranh, lương thực... đã ra lệnh cho cộng sản Hà Nội không được chợi trội, bắt bí phái Đoàn Mỹ tại Hội Nghị Paris, doạ đánh cho Mỹ phải chạy mà không có "Hiệp Định ngưng bắn - Agreement of cease- fire" chi cả. Họ Mao đã cứu Ông Nixon, nhưng Ông Nixon phải đền ơn xứng đáng:

I.- Vận động để cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Quốc ngồi vào cái ghế Hội Viên Thường Trực cuả Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc với quyền Phủ quyết cuối năm 1971, trước khi Ông Nixon gặp Họ Mao vào đầu năm 1972, mặc dầu Họ Mao đã chiếm hết lục địa Trung Quốc, thiết lập chính quyền, cai trị cả tỉ dân từ năm 1949. Còn Ông Quốc Dân Đảng Trung Hoa thì vẫn là bạn cuả Mỹ nhưng phải rời khỏi cái ghế đó, ra đảo Đài Loan mà chơi cho được việc.

2.- Ông Nixon phải bằng mọi cách, nhưng kín đáo, bán cho Họ Mao những vũ khí, kỹ thuật chiến tranh tối tân hiện đại nhất lúc đó để Trung Quốc đủ sứ "đánh nhau tay đôi" với Liên Sô khi cần, vì Liên Sô đã kết án,và đe doạ trừng trị Họ Mao về nhiều tội:
* Bất phục tùng Trung Tâm Lãnh Đạo phong trào cộng sản thế giới là Điện Kremlin ở Moscow.
* Dám thiết lập Tư Tưởng Mao Trạch Đông, trái nghịch với Học Thuyết Marx - Lenin là: Thiết lập nền vô sản chuyên chính kiểu Trung Quốc: lấy Nông Dân ( đại đa số dân Trung Quốc ) làm giai cấp lãnh đạo, thay vì giai cấp Công Nhân lãnh đạo, như Học Thuyết Marx-Lenin, đã được dùng làm Phương Châm Đấu Tranh cho Phong Trào Cộng Sản Toàn Cầu.
* Muốn thống trị Á Châu bằng sức mạnh cuả Trung Quốc và Tư Tưởng Mao Trạch Đông, tách ra khỏi sự lãnh đạo cuả điện Kremlin ở Moscow. Mao không chấp nhận "Kết hợp chủ nghiã yêu nước với chủ nghiã Quốc Tế Vô Sản", theo luận điểm cuả Lenin về khả năng tiến lên Chủ Nghiã Xã Hội không qua giai đoạn phát triển Tư Bản Chủ Nghiã (Lenin’s thesis on the possibility of advancing to Socialism by passing the stage of capitalist development) vì Liên Sô đã có cơ sở công nghiệp trong khi Trung Quốc chỉ có "Con trâu đi trước cái cầy". Như thế mới gọi là Tư Tưởng Mao Trạch Đông, chớ Hồ Chí Minh, lãnh tụ cộng sản Hà Nội chỉ có biết trò "Đu dây" theo voi ăn bã miá cả 2 phiá Liên Sô và Trung Quốc thì làm gì có cái gọi là Tư Tưởng Hồ Chí Minh như cộng sản Hà Nội vẫn ồn ào, ba hoa về Tư Tưởng Hồ Chí Minh.

Nhiều Sĩ Quan cao cấp cuả VNCH trông cảnh quân sĩ dưới quyền bị tan rã một cách thê thảm, đau đớn, trông cảnh dân chúng cả triệu người trên đường tháo chạy, phải làm bia lãnh đạn trọng pháo, hoả tiễn cuả Liên Sô và Trung Quốc tiêu diệt một cách tàn bạo, kinh hoàng, dã man mà thấy sót sa trong tim, trong lòng, phát điên phát khùng lên vì sự khờ dại, ngu xuẩn cuả Nguyễn Văn Thiệu. Là Tướng Lãnh, là Tổng Thống, là Tổng Tư Lệnh Quân Đội mà Nguyễn Văn Thiệu không hiểu rằng: Những phòng tuyến đầu tiên bị tan rã, quân đội chưa đánh mà bỏ chạy tán loạn cùng hàng triệu dân chúng thì hậu quả quân sự, chính trị, tâm lý cuả Nam Việt Nam sẽ ra làm sao!

Họ đã cố tình quên đi tinh thần chiến đấu cuả Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà trong dịp Tết Mậu Thân (1968). Lúc đó quân cộng sản được trang bị cá nhân, tất cả bằng súng tiểu liên xung kích AK-47 cuả Liên Sô, Tiệp Khắc, cùng với lực lượng võ trang cuả "Mặt Trận Giải phóng miền Nam", lợi dụng yếu tố bất ngờ khi phản bội thoả hiệp ngưng bắn trong dịp Tết thiêng liêng cổ truyền cuả dân tộc Việt Nam, thình lình mở cuộc "Tổng tấn công" vào hầu hết các thành phố, thị trấn cuả Nam Việt Nam. Trong khi đó Quân Đội VNCH hầu hết chỉ được trang bị bằng súng trường bán tự động Garant M-1, Carbin M-1 và tiểu liên loại nhẹ Carbin M-2 cuả quân đội Mỹ sử dụng trong thời Đệ Nhị Thế Chiến (cho sạch sẽ các kho vũ khí lỗi thời, cần chứa thứ khác) Vì bất ngờ cho nên chúng đã kiểm soát được một số lãnh thổ có tính cách chiến lược tại Quân Khu 2 và Quân Khu I, đồng thời tấn công mưu toan đánh chiếm luôn Thủ Đô Sài Gòn. Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng tại Hà Nội ra lệnh phải giữ đất đã chiếm bằng mọi giá để đưa dân chúng Nam Việt Nam vào 1 cuộc "Tổng nổi dậy", cướp chính quyền. Do đó, khi chiến trường đã được quân đội VNCH giải toả, quân cộng sản bị đánh bại, phải bỏ chạy, phóng viên báo chí, truyền thanh, truyền hình đi theo quân đội mới thấy những xác chết cuả lính cộng sản bị xiềng chân vào công sự chiến đấu, các ổ bích kích pháo, súng đại liên. Cộng sản Hà Nội không bao giờ ngờ được rằng Quân Đội VNCH có thể đánh bật chúng ra khỏi thành phố Huế sau 1 thời gian cộng sản chiếm đóng, toan tính thành lập chính quyền tại một thành phố giáp lưng với hậu phương to lớn cuả chúng ở bên kia sông Thạch Hãn, Quảng Trị. Vậy mà cộng sản đã phải bỏ chạy khỏi thành phố Huế trong chiến dịch lịch sử Tết Mậu Thân (1968), chỉ kịp luà theo chúng hàng ngàn sĩ quan, binh sĩ, nhân viên chính quyền, đảng phái chính trị do chúng bắt được tại Huế, đễ dẫn đi tàn sát, chôn sống tập thể theo kiểu Hitler giết người Do Thái, Staline giết người Ba Lan, nhưng ghê tởm hơn, vì chúng giết bằng đạn AK, bằng dao găm, mã tấu, còn sống cũng đạp xuống hố chôn luôn hàng chục, hàng trăm người 1 lúc.
Bốn năm sau, 1972, nắm được tinh thần "Bỏ cuộc, chạy làng" cuả tay "Sen đầm quốc tế" khổng lồ, nhưng đã quá mệt mỏi, chán chường với cuộc chiến tranh không thể thắng ở tiền tuyến bằng súng đạn tối tân vì nó chẳng có mặt trận, chiến tuyến nào rõ ràng để mình chủ động sử dụng "ưu thế hoả lực- Superiority of firepower" được cả, mà hậu phương thì rối loạn, nát bấy vì biểu tình, phản đối chiến tranh, đốt cờ, đốt thẻ trưng binh, Quốc Hội cãi nhau như mổ bò về chuyện có hay không viện trợ chiến tranh cho người bạn đồng minh để giữ vững cái "Tiền đồn chống công ở Á Châu". Thế là cộng sản Hà Nội lại áp dụng bài học cũ, 18 năm về trước, đã dùng để chiến thắng Điện Biên Phủ, đánh gục người Pháp tại Hoà Hội Geneva.

Năm 1972 cũng thế, Hà Nội tung vào miền Nam những Sư Đoàn tinh nhuệ, thiện chiến nhất đã từng đánh tan 2 Binh Đoàn Lưu Động (Groupements mobililes) cuả Pháp tại chiến trường Bắc Kạn-Lạng Sơn hồi 1950, bắt sống 2 Binh Đoàn Trưởng (Commandants de Groupements mobiles): Đại Tá Le Page và Trung Tá Charton, đưa những Sư Đoàn lừng danh từng đánh thắng, dứt điểm người Pháp tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954 bằng những trận đánh vũ bão theo lối "Chiến tranh quy ước - Conventional War" hẳn hoi. Hà Nội nhắm đánh vào Quân Khu I, lãnh thổ địa đầu cuả Nam Việt Nam, cho 15 ngàn quân cuả Sư Đoàn 304 tràn qua vĩ tuyến 17, dưới sự yểm trợ cuả pháo binh và hoả lực phòng không trang bị hoả tiễn điạ-không SAM-2 cuả Liên Sô, sau 3 ngày đêm đội những trận bão lưả Pháo Binh và Hoả Tiễn.

Sư Đoàn 3 Bộ Binh VNCH là Sư Đoàn mới thành lập, trong đó chỉ có Trung Đoàn 2 Bộ Binh nòng cốt là tương đối thiện chiến, còn hầu hết là tân binh, lính mới, và vị Tư Lệnh Sư Đoàn là Trung Đoàn Trưởng mới được vinh thăng Chuẩn Tướng thì làm sao mà chịu cho nổi sức tiến quân cuả cộng sản ? Cộng sản đánh chiếm Tỉnh Lỵ Quảng Trị, mở đường xuống Huế rồi sẽ phối hợp với các đơn vị chính quy Bắc Việt, xâm nhập từ đường mòn Hồ Chí Minh,cũng như các lực lượng vũ trang địa phương, bộ đội chủ lực cuả Tỉnh và Huyện, dứt luôn Quân Khu 1. Ngoài mục tiêu quân sự, cộng sản còn nhắm vào những mục tiêu chính chính trị và ngoại giao to lớn, quan trọng hơn: Cuộc Hoà Đàm tại Paris để quân đội Mỹ ra đi trong danh dự, không đến nỗi bị cộng sản quốc tế và Hà Nội đánh cho phải chạy mà không có Hiệp Định ngưng bắn chi cả.

Tỉnh Lỵ Quảng Trị bị chiếm, cộng sản cho xe tăng T-54 cuả Liên Sô dẫn đầu, Bộ Binh và cơ giới kéo xuống Huế theo quốc lộ I, được pháo binh và hoả tiễn 122 ly cuả Trung Quốc dọn đường. Quân cộng sản tiến về Huế như đi vào chỗ không có người. Dân chúng Quảng Trị thoát chết khi qua khỏi "Đại Lộ Kinh Hoàng" tràn xuống Huế, trong khi dân chúng Huế cũng xô nhau bỏ chạy vì dân ở đây làm sao quên được vụ tàn sát ghê gớm với những mồ chôn tập thể trong dịp Tết Mậu Thân - 1968! Tướng 3 sao Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân Đoàn I- Quân Khu I (người được nhiều nhân vật chính trị cũng như quân sự trong và ngoài nước đánh giá: chỉ là 1 Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn loại trung bình, chớ không đủ khả năng giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn trong giai đoạn địch quân tiến như vũ bão này) hoảng hốt, không biết phải đối phó ra sao, chỉ biết cầu cứu liên tục về Dinh Độc Lập ở Sài Gòn với tinh thần chủ bại. Tuyến đầu bị phá vỡ thì địch quân sẽ thưà thắng xông lên dễ dàng với tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Còn phiá ta đã rút lui, tan vỡ bỏ chạy thì tinh thần quân đội và dân chúng rối loạn ra sao, ai cũng biết! Giới truyền thông ngoại quốc, nhất là ở Mỹ đã đánh giá Quân Đội và các cấp chỉ huy cuả Quân Lực VNCH qua những Tướng Lãnh như vậy đó! Cho tới khi đài phát thanh loan báo: Tướng Ngô Quang Trưởng được điều động từ Quân Khu 4 ở trong Nam ra, nắm chức Tư Lệnh Quân Đoàn I và Vùng I chiến thuật thay thế Tướng Lãm, dân chúng đang hỗn loạn bỏ chạy khỏi thành phố Huế cũng đồng thanh la lên "Tướng Ngô Quang Trưởng về làm Tư Lệnh Quân Đoàn I, bảo vệ Huế và chiếm lại Quảng Trị thì bà con không có chạy đi đâu nưã cả !" Lòng dân tin tưởng mãnh liệt là thế!

Tướng Ngô Quang Trưởng xuất thân Khoá 4 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, gốc binh chủng "Thiên Thần Mũ Đỏ Nhẩy Dù", nhưng lúc này đã mang lon 3 sao vì những chiến công ngoài mặt trận, và luôn luôn hoà đồng với các Sư Đoàn Bộ Binh dưới quyền nên Tướng Trưởng luôn mặc quân phục tác chiến cuả Bộ Binh, thay vì quân phục Nhẩy Dù. Tướng Ngô Quang Trưởng về Huế, chỉnh đốn lại quân ngũ, tái phối trí lực lượng, kêu gọi dân chúng an tâm, xin tăng phái lực lượng Tổng trừ Bị: Nhẩy Dù, Thuỷ Quân Lục Chiến từ Sài Gòn bay ra. Thế rồi trước sân cờ Phú Văn Lâu, Cổ Thành Huế, Ông đã thề trước ba quân "Sẽ chiếm lại thành phố Quảng Trị trước ngày Lễ Quân Lực 19 tháng 6 (1972)" như thời Nhà Trần, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, khi ra quân đã cầm gươm chỉ xuống sông Bạch Đằng mà thề trước Tướng Sĩ: "Nếu phen này không phá tan được quân Mông Cổ thì ta sẽ không còn trông thấy con sông này nưã!" Ôi, Lịch Sử dân tộc Việt Nam, làm sao quên được những giờ phút bi hùng và oanh liệt như thế này! Dưới quyền Tư Lệnh cuả Danh Tướng Ngô Quang Trưởng, Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà đã anh dũng chiến đấu, chặn đứng những Sư Đoàn thiện chiến, lẫy lừng nhất cuả cộng sản Hà Nội, trước sự ngỡ ngàng cuả dư luận trong và ngoài nước. Cổ Thành Quảng trị đã được chiếm lại. Quân cộng sản đành tháo chạy trở ngược về bên kia vĩ tuyến 17, giống như năm 1953, Danh Tướng MacActhur cuả Hoa Kỳ đã phản công, đánh bật quân cộng sản Bắc Hàn ra khỏi những vùng chiếm dóng trên lãnh thổ Nam Hàn, bỏ chạy bán sống bán chết trở ngược về phiá Bắc vĩ tuyến 38.

Tướng Ngô Quang Trưởng và quân sĩ cuả Ông đã bảo vệ được Huế, chiếm lại thành phố Quảng Trị đúng như lời thề trước sân cờ Phú Văn Lâu bưã nào. Đó ! Tinh thần chiến đấu cuả Quân Đội VNCH là như thế đấy! Tướng Lãnh cuả Quân Đội VNCH có những người như thế đó ! Tờ báo Time Tạp Chí cỡ lớn cuả Hoa Kỳ, có lần đã đăng những dòng cảm nghĩ cuả Đại Tướng 4 sao Hoa Kỳ, Norman Schwarzkopf, Tư Lệnh Chiến Dịch" Bão Sa mạc - Desert storms" chinh phạt hung thần Sadam Hussein cuả xứ Iraq đầu thập niên 1990, đại để như sau " Hồi còn chiến đấu ở Khe Sanh thuộc lãnh thổ Quân Khu I Việt Nam Cộng Hoà, với tư cách là 1 Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng Nhẩy Dù cuả Hoa Kỳ, tôi đã học được ở Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Khu I VNCH rất nhiều kinh nghiệm quý báu trong nghệ thuật chỉ huy cũng như tác chiến. Những kinh nghiệm đó đã giúp tôi rất nhiều, ngay cả mấy chục năm sau, trong "Chiến thắng Bão Sa Mạc - Desert Storms’ Victory". Nhiều nhân vật chính trị lớn nhỏ, truyền thông tại sao không biết những điều này khi nói về Quân Đội VNCH ? Họ ngu dốt hay mang đầy ác ý trong đầu!

Rồi đến chiến trường An Lộc, Tỉnh Bình Long. Ở Hoà Hội Paris, Lê Đức Thọ và Xuân Thủy, Ủy Viên Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng cộng sản, ra mặt lấn áp Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger trong các buổi mật đàm qua thế mạnh cuả quân cộng sản tại Miền Nam, trong khi Hoa Kỳ muốn rút chân cho mau Khỏi " Vũng lầy kinh khủng " này. Đại Tướng cộng sản Võ Nguyên Giáp, người hùng Điện Biên Phủ, Bộ Trưởng Quốc Phòng cuả cộng sản đã tuyên bố trên đài phát thanh Hà Nội "Nhân dân Việt Nam đã đánh gục 3 đời Tổng Thống Hoa Kỳ, và sẽ đập tan chính quyền Nixon bằng 1 cuộc chiến thắng hoàn toàn - Defense Minister Vo Nguyen Giap says that the people of Vietnam have defeated 3 U.S. Administrations and are about to complete victory over President Nixon..." Với cái khí thế như vậy, xe tăng T-54 cuả cộng sản đã tràn ngập, làm chủ tình hình thị xả An Lộc, dẫn theo sau những đơn vị bộ binh thiện chiến, danh tiếng nhất, sau khi những trận bão lưả pháo binh đã quét dọn sạch sẽ, không để lại những gì có thể sống sót. Các chiến sĩ Sư Đoàn 5 Bộ Binh VNCH cùng 1 số đơn vị bạn còn lại cuả địa phương Bình Long đã chiến đấu vô cùng anh dũng, ác liệt, giữ từng tấc đất, từng góc phố, ngõ hẻm để có chỗ đứng hay nằm mà chiến đấu vì ngưng chiến đấu tức là chết. Mặt trận An Lộc làm rung động thế giới, làm rối loạn không khí hoà đàm tại Paris vốn đã nghiêng hẳn thế thuận lợi về phiá cộng sản. Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh cũng như Hà Nội muốn An Lộc phải thầt thủ kinh hoàng như Điện Biên Phủ ngày nào. Những tay cá độ quốc tế đã dám đánh 100 ăn 1 là An Lộc sẽ thất thủ để cho cộng sản tiến quân về Sài Gòn, đập tan chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ngay trong năm 1972. Tướng 3 sao (Général de Division) Vanuxem cuả Pháp, Tư Lệnh quân đội Pháp tại Bắc Phi, người đã từng giữ chức vụ "Commandant de la Zône Sud du Nord Vietnam - Tư lệnh Quân Khu tả Ngạn Sông Hồng Hà" thời kỳ Điện Biên Phủ thất thủ tại Việt Nam- 1954 - khi trả lời phỏng vấn cuả báo chí, truyền thanh, truyền hình, đã nói : Quân Đội VNCH không thể nào giữ nổi An-Lộc. Có lẽ Tướng Vanuxem chưa quên được cảnh pháo binh cộng sản bất ngờ hiện diện tại các đỉnh đồi chung quanh lòng chảo Điện Biên Phủ ( do trâu, voi, người kéo lên, dân công khiêng vác từng bộ phận) dội như mưa bão suốt ngày đêm, làm tê liệt hoàn toàn các giàn trọng pháo hùng hậu cuả Pháp cho đến nỗi Đại Tá Pirotti, chỉ huy trưởng pháo binh cuả Pháp tại chiến trường này quá thất vọng và khủng khiếp, phải mở chốt lựu đạn mà tự sát. Có lẽ Tướng Vanuxem chưa quên được cái cảnh những Sư Đoàn cộng sản cuồng tín, đông như kiến cỏ, theo chiến thuật "Biển Người" cuả Thống Chế Lâm Bưu Nguyên Soái Hồng Quân Trung Quốc, tràn qua các bãi mìn, đạp nát các công sự phòng thủ, các hàng rào kẽm gai chằng chịt, tràn xuống các giao thông hào, đạp lên xác chết cuả lính Pháp, Bắc Phi và cả cộng sản, phối hợp với quân cộng sản từ dưới đất chui lên từ các đường hầm đã được máy móc, cơ giới cuả Trung Quốc đào bới ngày đêm trong lúc pháo binh hoả tiễn Trung Cộng liên tục nổ rầm trời. Chắc Tướng Vanuxem liên tưởng đến cái cảnh Tư Lệnh chiến ttrường Điện Biên Phủ, Tướng De Castries, mặt mũi hốc hác, bị quân cộng sản bắt sống ngay tại căn hầm Chỉ huy, cùng với toàn thể Sĩ Quan Bộ Tham Mưu cuả Ông để rồi chiến tranh Việt-Pháp kể như chấm dứt từ chỗ này, mà phần thất bại tất nhiên thuộc về phiá người Pháp. Tướng Vanuxem tin chắc là Quân Đội Việt nam Cộng Hoà không thể nào giữ nổi An Lộc một khi Hà Nội đã quyết dịnh biến An Lộc thành một thứ Điện Biên Phủ để giành thế chủ động trên bàn Hội Nghị tại Paris, một khi cộng sản Hà Nội có Liên Sô và Trung Quốc đứng sau lưng, nhất định bắt người Mỹ phải "nhắm mắt lại mà ký vào Hiệp Định Paris" như cộng sản đã bắt người Pháp phải làm như thế ở Hội nghị Geneva 1954.

Thế mà, khi Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù, hợp lực với Biệt Động Quân và 1 số đơn vị Bộ Binh VNCH kéo tới đánh những trận phản công sấm chớp, lở đất long trời thì xe tăng T-54 Sô Viết, cũng như Bộ Binh cộng sản từng làm mưa làm gió trước đó trên vùng đất An Lộc tan hoang, trơ trụi, đành phải mở đường máu mà tháo chạy mặc dù lệnh cuả Hà Nội: phải giữ An Lộc đã chiếm bằng mọi giá. An Lộc vẫn còn đó, không thất thủ như Điện Biên Phủ năm 1954. Cả thế giới kinh ngạc. Tướng 3 sao cuả Pháp Vanuxem cùng dân cá độ quốc tế đã thua đậm trong keo này. Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Thống Đệ Nhị Việt Nam Cộng bỗng dưng có được giờ phút vinh quang và oai hùng nhất trong cuộc đời binh nghiệp cũng như chính trị cuả ông : đáp trực thăng xuống ngay chiến trường An Lộc giưã tiếng hoan hô vang dậy không ngớt cuả cuả các chiến sĩ VN Cộng Hoà vưà tái chiếm An Lộc, trong khi tiếng đại bác cuả 2 bên, tiếng hoả tiễn 122 ly cuả Trung Cộng vẫn còn nổ vang quanh vùng, và An Lộc vẫn còn mù mịt, khét lẹt mùi lưả đạn. Đó! Tinh thần chiến đấu cuả Quân Đội VN Cộng Hoà là như thế đấy! Và còn biết bao nhiêu trận đánh lẫy lừng khác trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật. Một bài báo có hạn làm sao kể hết!

Năm 1975, Cộng sản đánh chiếm Ban Mê Thuột, cũng chẳng khác gì cộng sản đánh chiếm Huế năm 1968, đánh chiếm Quảng Trị, kiểm soát An Lộc năm 1972 bao nhiêu. Vậy thì khi Ban Mê Thuột mới rơi vào tay giặc trong sự bất ngờ, tại sao Ông Thiệu lại hạ lệnh cho Tướng Phạm Văn Phú phải bỏ Quân Khu 2, cho Tướng Ngô Quang Trưởng phải bỏ Quân Khu I, trong khi hai Tướng Tư Lệnh này đang có trong tay 6 Sư Đoàn Bộ Binh, hầu hết đều thiện chiến, chưa kể đến các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, mấy chục Tiểu Đoàn Địa Phương Quân, bao nhiêu là đơn vị yểm trợ chiến đấu, đó là chưa kể đến hoả lực yểm trợ cuả Hải Quân, Không Quân, lực lượng Tổng trừ Bị cuả Nhẩy Dù và Thuỷ Quân Lục Chiến, tất cả đều đang sẵn sàng chiến đấu vì chỉ có chiến đấu hay là chết mà thôi.
Ông Thiệu hạ lệnh rút bỏ 2 Quân Khu cưả ngõ, địa đầu cuả nam Việt Nam như vậy để làm gì ? -Để tạo nên một sự tan rã, hỗn loạn cuả cả một lực lượng Quân Đội to lớn, hùng mạnh như nói ở trên, trong khi tất cả đang sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu để sống còn. Sự tan rã hỗn loạn này kéo theo sự hỗn loạn tràn ngập cuả hàng triệu dân chúng đổ vào Quân Khu 3, bao quanh Thủ Đô Sài Gòn. Trong tình thế đó thì Quân Khu 3 còn đánh đấm gì được nưã ? Quân Cộng sản chẳng cần đánh, mà cứ như đi vào chỗ không có người. Nên nhớ rằng, khi gặp sự quyết chiến cuả Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH, với sự tăng cường cuả một số đơn vị bạn, mà Bộ Tư Lệnh Hành Quân cuả Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng đã phải tung ra 2 Sư Đoàn thiện chiến để hòng nhân đà thắng lợi, đánh tan Sư Đoàn 18 Bộ Binh, dưới sự chỉ huy cuả vị Tướng Trẻ Lê Minh Đảo, nhưng không thắng nổi. Sau cùng Văn Tiến Dũng phải tung thêm 2 Sư Đoàn nưã vào mặt trận này, là 4 Sư Đoàn tất cả, lấy 4 đánh 1, trong thế thuận lợi hoàn toàn về phương diện tinh thần quân sĩ đang lên. Vậy mà Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH chỉ chịu thua khi không còn nguồn tiếp tế nào nữa, chỉ còn lại súng mà không có đạn. Hoa Kỳ chỉ cho sài có chừng đó đạn mà thôi, ráng mà chịu! Tướng Homer Smith, Tùy Viên Quốc Phòng Mỹ tại sài Gòn, ngày 13 đã gửi cho Tướng George S. Brown, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ ca ngợi ý chí và tinh thần chiến đấu dũng cảm tuyệt vời của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa dù những bất lợi đang đè nặng trên vai họ. Sau 5 ngày theo dõi cuộc chiến An Lộc, Tướng Smith đã nói: "Sự chiến đấu anh hùng và dũng cảm của quân đội Nam Việt Nam kể cả Địa Phương Quân Tỉnh Long Khánh, đã cho người ta thấy rõ tinh thần và khả năng chiến đấu của những người lính này giỏi hơn đối phương của họ rất nhiều.."


Tướng
Lê Văn Hưng
Trong lúc đó tại Quân Khu 4, ở miền Tây, Tướng Tư Lệnh Nguyễn Khoa Nam, một Tướng giỏi, với Tướng Tư Lệnh Phó Lê Văn Hưng, người hùng tử thủ An Lộc mấy năm trước, có trong tay 3 Sư Đoàn Bộ Binh thiện chiến và các lực lượng Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, Địa Phương Quân, các đơn vị yểm trợ chiến đấu rất hùng hậu, tinh thần rất cao, sẵn sàng chờ địch tiến đánh Quân Khu 4 cuả 2 Tướng này. Khi Tổng Thống... cà chớn Dương Văn Minh, với tư cách Tổng Tư Lệnh lúc đó, bị chỉ huy bởi Sư Phụ Thích Trí Quang và ngay cả từ Hà Nội qua trung gian cuả người em ruột Dương Văn Minh, Sĩ quan cao cấp cộng sản là Dương Văn Nhựt (đã liên lạc với Dương Văn Minh từ hồi 1956) hạ lệnh cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà buông súng đầu hàng cộng sản vô điều kiện (để bàn giao cho cộng sản, hi vọng kiếm cho bản thân và bè lũ, chỗ đứng chỗ ngồi mà cộng sản sẽ dành cho trong chính quyền "Cách Mạng giải phóng", thì Tướng Nguyễn Khoa Nam đã họp các Sĩ Quan có trách nhiệm chỉ huy dưới quyền, và ra lệnh: anh em tuỳ nghi lo liệu về phần mình, trước tình thế chúng ta bị bắt buộc phải đầu hàng. Sau đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam, trong bộ quần áo tác chiến, mũ sắt 2 lớp (sẵn sàng chiến đấu) đã vào Văn Phòng Tư Lệnh, ngồi xuống ghế cuả mình, nhìn lại lần cuối tấm bản đồ Tổ Quốc trên tường, nhìn lá cờ nhỏ nền đỏ với 2 ngôi sao trắng, tượng trưng cho uy quyền cuả một Tướng Lãnh chỉ huy, để trên bàn rồi rút súng bắn vào đầu tự sát. Chắc chắn là trước khi bóp cò cho viên đạn xuyên qua đầu, vị Tướng đáng kính phục này đã nói những gì với Tổ Quốc, với đồng bào, với chiến hữu cuả ông. Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn, anh hùng tử thủ An Lộc mấy năm trước, trở về nhà riêng. Vị Tướng anh hùng An Lộc này nói với người vợ thân yêu "Em ở lại nuôi con, anh phải ra đi vì thân làm Tướng không thể sống nhục như thế này.." Người vợ thân yêu chỉ kịp kêu lên "Anh Hưng, Anh Hưng! Cho em chết theo với!" thì Tướng Hưng đã vào phòng riêng, đóng cưả lại, và 1 phát súng nổ... Tướng Lê Văn Hưng đã ra đi vĩnh viễn cùng với Tướng Tư Lệnh Nguyễn Khoa Nam, để lại cho Lịch Sử dân tộc Việt Nam những tấm gương bất khuất sáng ngời, như những tấm gương bất khuất cuả Cha Ông ngày trước, cuả những thời đại Lý Thường Kiệt phá quân ngoại xâm Nhà Tống, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đại phá quân Mông Cổ về việc... Hai Ông Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng đã cùng một số Tướng Lãnh khác như Phạm Văm Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ và nhiều Sĩ Quan cao cấp khác cuả Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà đã chết theo vận nước. Các Ông không muốn bị bắt làm tù binh hay đầu hàng giặc để lại ô danh cho hậu thế. Các ông cũng không muốn bỏ quân mà chạy lấy thân để rồi ra nước ngoài. Trên thế giới này, Quân đội nào có những Tướng Lãnh anh hùng và can đảm như thế hay không ?

Một số Sĩ Quan cao cấp cuả Hoa Kỳ từng tham chiến tại Việt Nam, không muốn dư luận cũng coi mình như những kẻ khác không biết gì về cuộc chiến Việt Nam, cuộc chiến kỳ lạ này, về sau đã phải lên tiếng nói ra sự thật: Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà, nói chung, đã chiến đấu rất anh dũng và kiên cường, mặc dầu họ luôn luôn phải chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, không được chiến đấu trong những điều kiện đầy đủ, dễ dàng như quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam:
*Quân Đội Hoa Kỳ chỉ chiến đấu khi nắm chắc được yếu tố "Vượt trội về hoả lực - Superiority of Firepower". Quân đội VNCH phải chiến đấu trong mọi trường hợp cần thiết. *Quân đội Hoa Kỳ chỉ chiến đấu tại Việt nam trong thời gian ngắn hạn rồi thay nhau về xứ. Như thế không bị dồn vào thế mệt mỏi căng thẳng quá độ, thường trực về thể chất cũng như tinh thần. Còn Quân dội VNCH thì ngược lại, phải chiến đấu liên tục, không ngưng nghỉ. Sức chịu đựng cuả người chiến binh VNCH nó khủng khiếp đến thế nào ?

*Trong khi chiến đấu cũng như lúc đóng quân trong đồn lũy, người chiến binh Hoa Kỳ luôn luôn được bảo vệ bằng những phương tiện chiến tranh dồi dào, tối tân, hiện đại nhất, cả về tấn công, phòng thủ cũng như yểm trợ. Người chiến binh VNCH làm sao có được như vậy. Cái mạng sống cuả người chiến binh Việt Nam nó cũng mỏng manh, khó thọ hơn quá nhiều.

*Điểm nưã, ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần, thể chất, tâm lý cuả người chiến binh Việt Nam là: trong khi mình xả thân chiến đấu bảo vệ đất nước, bảo vệ mạng sống cuả chính mình thì lúc đó gia đình, những người thân yêu phải sống ra sao? Liệu có đang kẹt trong vùng lưả đạn, chết chóc hay không? Về điểm này, người chiến binh Hoa Kỳ khoẻ hơn là cái chắc, tinh thần ổn định, thoải mái hơn rõ ràng.

Nếu đặt người chiến binh Hoa Kỳ vào vị trí, hoàn cảnh, phương tiện chiến đấu cuả người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, thử hỏi liệu người chiến binh Hoa Kỳ có thể chiến đấu được như người chiến binh Việt Nam CH hay không ? Chịu được bao lâu ? Chính Phủ, Quốc Hội và Nhân Dân Hoa Kỳ chịu được mấy tháng, mấy năm ?

Câu trả lời xin dành cho những nhà viết sử chân chính, cho những Sĩ Quan và Quân Nhân Hoa Kỳ từng chiến đấu anh dũng, can trường bên cạnh những người bạn chiến binh Việt Nam CH cuả họ từ các chiến trường Khe Sanh, Đác-Tô, Pleiku, Kontum, Đồng Xoài, Bình Giả, Củ Chi, cho đến các chiến trường vùng đồng bằng sông Cửu Long, điểm tận cùng cuả Tổ Quốc Việt Nam...

Nam Việt Nam mất vào tay cộng sản vì Hoa Kỳ đã bị giới tư bản tài phiệt (financial oligarchy) lèo lái, lật đổ một chính quyền chống cộng có sách - lược hiệu quả rõ ràng là chính quyền Ngô Đình Diệm để đổ đại quân vào đây, giành lấy quyền chủ động cuộc chiến "Bảo vệ Nam Việt Nam" theo kiểu của mình, mà chỉ "Bảo vệ" tức là chỉ "Phòng thủ" cho đến lúc thua thì thôi, chớ không dám "Tấn công" vào cái Trung Tâm chỉ huy cũng như tiếp tế của cộng sản Hà Nội là Miền Bắc Việt Nam vì ngán Liên Sô và Trung Cộng. Nam Việt Nam đánh nhau với cộng sản quốc tế mà khẩu súng chỉ được sài mấy viên đạn, khẩu đại bác chỉ được thụt mấy trái, xe tăng chỉ được sài bao nhiêu lít săng về việc... Khi lâm trận, súng hết đạn, xe tăng hết săng, ráng mà chịu. Vậy thì Nam Việt Nam bị cộng sản quốc tế và Hà Nội cướp mất Tự Do của mình là do đâu? Kẻ ngu dốt nhất cũng có thể trả lời được.

Còn bất cứ ai, không biết gì về cuộc chiến Việt Nam thì tốt nhất là im lặng, tránh né, đừng nói năng, phê phán chi về cuộc chiến đó, nhất là đừng nói đến quân đội Nam Việt Nam vì nói đại, nói trật chỉ lòi cái dốt, cái không biết của mình ra và chỉ chứng tỏ là người thích nói cho sướng miệng cho thiên hạ phục mình là kẻ biết nhiều, kể cả những điều không biết trúng trật ra sao cả. Lời nói đã ra khỏi miệng, không sao lấy lại được, và lời nói bậy, nói ẩu chỉ làm trò cười cho thiên hạ đồng thời đánh giá về sự hiểu biết, tính tình và con người của mình mà thôi.

Phan Đức Minh

RETURN TO FRONT PAGE


 





Copyright © 1997-2004   SaigonUSA News. All rights reserved.