|
545
E. Saint John St.
San Jose,
CA 95112
USA
Tel:
(408) 998-0508
Fax:
(408) 993-0527
Email:
saigonusanews
@yahoo.com
|
|
|
V
Ă N H Ó A & G I Á O D
Ụ C
JOHN
KERRY LÀ AI ?
NHIỆM
VỤ KERRY VỚI ĐƯỜNG LỐI CỦA LIÊN BANG SÔ VIẾT TRONG CUỘC CHIẾN VIỆT NAM;
VAI TRÒ KERRY TRONG NHÓM CỰU CHIẾN BINH PHẢN CHIẾN MỸ; ĐI BA-LÊ GẶP
NGUYỄN THỊ BÌNH VÀ XUÂN THỦY LÀM GÌ? KERRY VÀ NHÓM CỰU CHIẾN BINH PHẢN
CHIẾN MỸ ĐÓNG GÓP GÌ TRONG CÔNG TÁC HẠ UY THẾ CỦA MỸ TRONG CUỘC CHIẾN
TRANH VIỆT NAM, ĐẶC BIỆT LÀ VAI TRÒ KERRY QUA CUỘC BIỂU TÌNH PHẢN KHÁNG
LỚN TẠI HOA THỊNH ĐỐN VÀO THÁNG 4, 1971 VÀ QUA BUỔI ĐIỀU TRẦN NGÀY 22
THÁNG 4, 1971 TRƯỚC ỦY BAN FULBRIGHT, THƯỢNG VIỆN HOA KỲ? NHÓM CỰU CHIẾN
BINH PHẢN CHIẾN MỸ ĐI HÀ NỘI VỚI MỤC ĐÍCH GÌ VÀ BỊ HÀ NỘI LỪA VÀ HƯỚNG
DẪN VÀO CÔNG TÁC THỰC HIỆN MỤC TIÊU CỦA HÀ NỘI TẠI MẶT TRẬN HOA KỲ:
MỸ PHẢI CHẤM DỨT CHIẾN TRANH TẠI VIỆT NAM VÌ LÀ MỘT CUỘC CHIẾN TRANH
VÔ ĐẠO ĐỨC KERRY ĐI THƯƠNG THUYẾT VỚI KẺ THÙ CÓ VI PHẠM TỘI HÌNH SỰ
ĐƯỢC QUI ĐỊNH TRONG ĐIỀU 18 BỘ LUẬT USC, CHƯƠNG 935 HAY ĐIỀU III CHƯƠNG
3 HIẾN PHÁP HOA KỲ? v.v… Các câu hỏi đó được tiết lộ qua 20,000
trang tài liệu Mật của FBI chiếu theo một người thuộc phe ủng hộ Kerry
trong cuộc tranh cử Tổng thống năm 2004 đòi hỏi phải công khai hóa theo
đạo luật tự do thông tin.
LỜI
MINH XÁC
San Jose, ngày 30-9-2004.
Kính thưa quí đồng hương,
Chúng tôi vừa nhận được thư đề ngày 24 tháng 9 năm 2004 từ nhà xuất
bản Regnery Publishing, Inc. chính thức cho phép Hội Văn Hoá Việt
được phổ biến trên các báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ bản dịch Việt ngữ:
Chương 7 của cuốn sách “Unfit For Command” (Bất Xứng Để Chỉ Huy).
Mục đích việc phổ biến Chương 7 này với tiêu đề: “Meeting with the
Enemy”
(Tiếp Xúc với Kẻ Thù) là cung cấp cho quí đồng hương, đặc biệt giới
trẻ người Việt những dữ kiện lịch sử trung thực liên quan đến quá
khứ và hiện tại của dân tộc Việt Nam một cách khách quan. Phần nhận
định về tài liệu, chúng tôi dành cho quí độc giả.
Trân trọng,
Hội Văn Hóa Việt
|
Những
chi tiết liên hệ được trình bày trong Chương VII: TIẾP XÚC VỚI KẺ THÙ
của cuốn sách có nhan đề là “Bất Xứng Trong Vai Trò Chỉ Huy” (Unfit
For Command). Tác giả là cựu chiến binh Việt Nam, cùng phục vụ trên
chiếc Giang Thuyền Cao Tốc với John Kerry. Đó là John E. O’Neill và
Tiến sĩ Jerome R. Corsi do nhà xuất bản Regnery Publishing, Washington
D.C. ấn hành năm 2004. Dịch giả là GS. Nguyễn Văn Canh, Giám Đốc Trung
Tâm Nghiên Cứu Việt Nam.
“BẤT XỨNG TRONG VAI TRÒ CHỈ HUY”
Tổ Chức Cựu Chiến Binh trên Giang Thuyền Cao Tốc Lên Tiếng Chống Kerry
của John E. O’Neil & Jerome R. Corsi, nhà xuất bản Regnery Publishing,
Inc. 2004.
Translation of Chapter VII:
“Meeting with the Enemy”
from the book
UNFIT FOR COMMAND
by John E. O’Neill and
Jerome R. Corsi, Ph.D., Copyright©2004.
Published by Regnery Publishing, Inc. All rights reserved. Reprinted
by special permission of Regnery Publishing Inc., Washington, D.C.
CHƯƠNG
VII:
TIẾP XÚC VỚI KẺ THÙ
“Có một sự kiện là
trong toàn thể cuộc chiến,
chúng ta không hề thua một trận lớn nào.
Chúng ta thua cuộc chiến tại Mỹ, và chính tại Mỹ này,
John Kerry là tư lệnh chiến trường.”
Đó là lời tuyên bố của ROBERT ELDER, Swift Boat Veterans
for Truth Press Conference (Tổ chức Cựu Chiến Binh
Giang Thuyền vì Sự Thật tại cuộc họp báo)
ngày 4 tháng 5, 2004 tại Washington, D.C.
Ion
Mihai Pacepa,
sĩ quan tình báo cao cấp nhất của cộng sản Liên-Sô đào thoát sang Tây
phương đã nói vào tháng 6-2004 về công tác tình báo của KGB mà ông ta
tin rằng là nguồn gốc xuất phát ra luận cứ tội phạm và các tội ác chiến
tranh. Đó là tâm điểm bản điều trần của John Kerry trước Ủy Ban Fulbright,
Thượng Viện Hoa Kỳ vào năm 1971.
Đối với Pacepa, trường hợp này thật là rõ ràng. Các cáo giác về tội
phạm chiến tranh ở Việt Nam của John Kerry vào năm 1971 đối với ông
ta “như là đường lối đầu độc tin tức mà cộng sản Liên-Sô đã reo rắc
trên khắp thế giới suốt trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam”. Mục tiêu
ưu tiên của tổ chức tình báo KGB là làm hạ uy tín của Mỹ tại Việt Nam.
Để đạt mục đích này, KGB đã bỏ ra hàng triệu Mỹ kim để tạo ra “cùng
một lời đả kích đầy hận thù mà Kerry nhắc đi nhắc lại, hầư như nguyên
văn từng chữ, cho Quốc Hội Mỹ, và cấy vào óc của các phong trào tả phái
tại khắp nơi ở Âu Châu.”
Theo Pacepa, Yuri Andropov, Chủ tịch vào thời đó của Tổ chức KGB ra
lệnh cho Romesh Chandra, chủ tịch của Tổ Chức Hoà Bình Thế Giới do KGB
tài trợ lập ra Hội Nghị Stockholm về Việt Nam là một tổ quốc tế thường
trực “để hỗ trợ và điều khiển các công tác giúp người Mỹ trốn quân dịch
hay đào ngũ, là mất nhuệ khí quân đội Mỹ bằng các tuyên truyền chống
Mỹ, điều khiển các cuộc phản kháng, biểu tình; tẩy chay và trừng phạt
những ai có liên hệ với chiến tranh ấy”. Đảng Cộng Sản tài trợ cho Tổ
Chức Hoà Bình Thế Giới lên tới chừng 50 triệu Mỹ kim một năm vào lúc
đó, theo Pacepa thì Hội Nghị Stockholm về Việt Nam được cấp cho 15 triệu
khác. Trong 5 năm hoạt động Hội Nghị Stockholm về Việt Nam tạo ra hàng
chục ngàn “tài liệu in bằng nhiều ngôn ngữ của Tây phương mô tả ‘các
tội ác ghê tởm’ mà quân nhân Mỹ phạm phải đối với thường dân Việt Nam,
cùng với hình ảnh giả mạo.” Ban Đầu Độc Tin Tức của tổ chức tình báo
cộng sản Liên-Sô là KGB đã làm ra các tài liệu này, và nhân viên KGB
ở Âu Châu và Mỹ Châu in ấn và phân phát hàng trăm ngàn bản tài liệu
ấy.
Dù Kerry có biết hay không về việc này, bản điều trần của Kerry trước
Ủy Ban Fulbright đã lặp lại những câu và tài liệu nằm trong đường lối
của Đảng Cộng Sản. Pacepa không tỏ ra nghi ngờ về lời kết luận “Đối
với tôi, KGB là cha đẻ của Phong Trào Phản Chiến ở Mỹ”.
CỰU
CHIẾN BINH VIỆT NAM PHẢN CHIẾN
Vào tháng 11 năm 1970, Al Hubbard xuất hiện như là một lãnh tụ nổi bật
trên bình diện quốc gia của nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến. Hubbard
tự nhận là có liên hệ chặt chẽ với tổ chức Black Panthers (Báo Đen).
Người ta biết rất ít tới sự liên hệ của y với Liên Minh Nhân Dân cho
Hoà Bình và Công Lý, một tổ chức phản chiến bạo động có liên hệ rất
chặt với Cộng sản. Nhân vật nồng cốt lập ra Liên Minh Nhân Dân cho Hoà
Bình và Công Lý là nhóm người Trotskyite cực đoan. Những người này xuất
phát từ Đảng Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa và Đảng này lần đầu tiên xuất
hiện trong Phong Trào Động Viên Toàn Quốc Để Chấm Dứt Chiến Tranh Việt
Nam vào năm 1969.
Al Hubbard cũng lại là một cựu chiến binh khác đã nói dối về phục vụ
tại Việt Nam. Y quảng cáo là Đại Úy Không Quân có huy chương, bị thương
vì một mảnh đạn ở xương sống khi lái máy bay vận tải vào Đà Nẵng năm
1966. Câu chuyện của y bị phát giác khi đài truyền hình NBC nhận được
một nguồn tin về vụ này, và Hubbard đã phải thú nhận trên Chương trình
Today Show rằng thời gian ở Việt Nam y thực sự chỉ là một Trung sĩ,
không phải là phi công hay Đại úy.
Thoạt tiên, John Kerry bênh bạn của mình, biện hộ rằng lời nói dối của
Hubbard có thể thông cảm được. Kerry nói rằng Hubbard nói dối là vì
anh ta cảm thấy cấp bực cao là quan trọng để lãnh đạo nhóm Cựu Chiến
Binh VN Phản Chiến. Tuy nhiên chỉ vài ngày sau, vụ nói dối này bị bại
lộ hoàn toàn. Bộ Quốc Phòng ra một bản tin nói rằng vào lúc Hubbard
được giải ngũ khỏi Không Quân vào tháng 10, 1966, anh ta phục vụ như
là một kỹ sư huấn luyện viên trên máy bay C-123 với Đệ Thất Không Đoàn
Vận Tải, đồn trú tại căn cứ McChord ở Tacoma, tiểu bang Washington.
Bộ Quốc Phòng báo cáo rằng “Không có tài liệu trong hồ sơ nào về việc
y phục vụ tại Việt Nam, nhưng vì y là một toán viên trong phi hành đoàn,
y có thể vào Việt Nam trong một thời gian ngắn trong các công tác bốc
rỡ hàng hoá, hoặc vào để cho phi hành đoàn được nghỉ. Cấp bậc cao nhất
của y là Trung Sĩ Tham Mưu.E-5.” Hơn thế nữa, Hubbard không được một
Chiến Thương Bội Tinh hoặc huy chương phục vụ tại VN nào và Không Quân
không thấy có hồ sơ về việc anh ta đã từng ở Việt Nam, dù có thể là
anh ta đến đó trong công tác vận tải. Thật ra, vết thương của Hubbard
là do tai nạn thể thao gây ra - một vết thương do chơi bóng rổ vào năm
1956 và chơi đá bóng vào năm 1961.
John Kery đã xuất hiện bên cạnh Al Hubbard trên Chương trình Meet the
Press của Đài NBC vào ngày 18 tháng 4, 1971. Y cũng cùng đứng trên diễn
đàn với Hubbard trong cuộc biểu tình phản kháng Dewey Canyon III của
nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến ở Hoa thịnh Đốn. Vì có cuộc biểu tình
này mới có buổi điều trần của Ủy Ban Fulbright. Vào tháng 6, 1971 khi
mà vụ gian lận của Hubbard trở thành quá rõ rệt, Kerry rất bối rối,
nhưng y tiếp tục đại diện cho nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến với
tư cách là phát ngôn viên trên bình diện quốc gia, và Hubbard tiếp tục
đại diện cho nhóm này với tư cách Giám đốc chấp hành và là người lãnh
đạo tòan quốc.
KERRY
Ở BA-LÊ
Vào tháng 6, 1971, Lê đức Thọ đến Ba-lê gia nhập Phái Đoàn Cộng Sản
Bắc Việt về hoà đàm. Việc này đánh dấu sự thay đổi về phương sách của
CS trong việc phát huy mục tiêu của họ bằng đường lối thương thuyết.
Cùng với Hồ chí Minh, Thọ là một trong những người sáng lập đầu tiên
ra Đảng Cộng Sản Đông Dương, và cũng là một trong những chiến lược gia
của CS Bắc Việt.
Y đến để gia nhập với một ‘đồng chí’, bà Nguyễn thị Bình, một ủy viên
Ban Chấp Hành Trung Ương của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vào lúc đó
là Bộ Trưởng Ngoại Giao của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam VN.
Công cụ quân sự của Chính phủ này được nhiều người gọi là Việt Cộng,
và bà Bình được coi là Đại Diện của phái đoàn VC ở Bàn Hội Nghị Ba-lê.
Ngày 1 tháng 7, 1971, chỉ trong vài ngày sau khi Lê đức Thọ tới, bà
Bình đưa ra đề nghị 7 điểm để chấm dứt chiến tranh VN. Trung tâm điểm
của kế hoạch này là một điều khoản được khôn khéo lồng vào bản đề nghị
ấn định ngày trao trả tù binh Mỹ để đổi lấy việc Hoa Kỳ ấn định đơn
phương rút hết quân đội khỏi Việt Nam. Nói cách khác, Mỹ chỉ có thể
có được Tù binh trở về nếu chúng ta đồng ý rằng chúng ta thua trận,
rồi đầu hàng và rồi ấn định ngày rút quân. Chừng một năm trước đó, một
cặp vợ chồng Mỹ trẻ cũng đến Ba-lê, coi như là đi tuần trăng mật: John
Kerry, một cựu chiến binh hải quân trẻ, mày râu nhẵn nhụi, có người
vợ mới cưới là Julia Thorne, dòng dõi George Washington. Nhưng thực
tế vụ tuần trăng mật không phải là lý do duy nhất cho John Kerry đến
Ba-lê. Chiến dịch vận động tranh cử Tổng thống của Kerry nay thú nhận
rằng ông ta có “nói chuyện riêng với đại diện hàng đầu của VC” ở đó.
Trong nhiều thập niên qua, việc tiếp xúc này chỉ là tin đồn. Tin đồn
này bắt nguồn từ ở một lời bình luận ít người biết đến của Kerry trong
một đoạn dưới hình thức câu “hỏi-và-trả lời” trong buổi điều trần trước
Ủy Ban Fulbright, Quốc Hội Hoa Kỳ vào ngày 22 tháng 4, 1971: “Tôi đã
đến Ba-lê. Tôi đã nói chuyện với cả hai phái đoàn ở Hội Nghị hoà bình,
nghĩa là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời).”
[Lời tòa soạn: phái đoàn Cộng Sản Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam, con đẻ của CS Hà Nội].
Vào ngày 25 tháng 3, 2004, Michael Kranish của tờ Boston Globe báo cáo
rằng Michael Meehan, phát ngôn viên cho Chiến dịch tranh cử Tổng thống
của Kerry, đã thú nhận John Kerry đã đi sang Ba-lê sau lễ cưới vào tháng
5, 1970 và trong chuyến đi đó với bà vợ của ông ta, ông ta đã có họp
ngắn ngủi với bà Bình, một cuộc họp gồm cả thành viên của Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hoà (Bắc Việt) và Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời (Việt Cộng).
Meehan nhấn mạnh rằng Kerry không đi Ba-lê với ý định gặp các phái đoàn
Cộng Sản ở Hoà Đàm Ba-lê và rằng ông ta không tham dự vào các cuộc thương
thuyết. Kerry nhấn mạnh rằng cuộc họp đó chỉ hoàn toàn có mục đích “tìm
kiếm sự kiện”.
Ngày 22 tháng 7, 1971, Kerry mở một cuộc họp báo ở Hoa Thịnh Đốn. Nhân
danh nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến, Kerry công khai kêu gọi Tổng
Thống Nixon chấp nhận kế hoạch 7 điểm của bà Bình (Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam).
Đề nghị của bà Bình được sắp đặt để gửi đi một thông điệp đầy cảm xúc
cho mặt trận quốc nội của Mỹ - rằng cản trở duy nhất để mang các tù
binh về là Mỹ không muốn ấn định ngày rút quân, dù rằng sự đề nghị rút
quân đó đưa tới sự bại trận. Đề nghị của VC thách thức trực tiếp vói
đề nghị của VNCH về ấn định nhật kỳ hưu chiến và cử tự do để thống nhất
đất nước. Chính phủ Cách mạng lâm thời và VC rõ ràng đồng ý với Thủ
tướng Trung Cộng Chu ân Lai rằng lực lượng của Mỹ phải hoàn toàn rút
khỏi Việt Nam là điều kiện tiên quyết duy nhất có thể thương lượng.
Như tờ New York Times ghi nhận khi tường thuật về cuộc họp báo, John
Kerry nói rằng TT. Nixon từ chối ấn định thời khoá biểu rút quân vì
Bắc Việt không cam kết thả tù binh. Kerry biện luận rằng bây giờ Cộng
sản Việt Nam hứa ấn định thời khoá biểu thả tù binh, thì Nixon không
còn lựa chọn nào khác ngoại trừ ấn định ngày rút quân đội Mỹ về. Kerry
bỏ qua không nói tới một điều kiện mà TT. Nixon coi là quan trọng, rằng
Mỹ có chính nghĩa và rằng quyền lợi về tự do (cho Miền Nam VN) phải
được thoả mãn bằng cách ngăn cản sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản
ở Đông Nam Á. Theo quan điểm của TT. Nixon, Hoa kỳ chiến đấu không để
bỏ rơi đồng minh của chúng ta vào tay Cộng sản, nhưng mà để bảo vệ quyền
tự quyết của Miền Nam VN.
Ngày nay, ứng viên Tổng thống John Kerry có lẽ muốn chúng ta tin rằng
mục tiêu duy nhất của hoạt động phản chiến của y lúc đó là chống đối
một cách can đảm một cuộc chiến tranh mà y biết rằng không biện minh
được. Tất cả mọi điều mà y muốn làm là chấm dứt một cuộc chiến tranh
ở nơi đó chính sách quân sự như vùng tự do oanh kích và chiến thuật
như tìm-và- diệt địch dẫn tới các tội ác chiến tranh, giết những thường
dân vô tội và đốt làng mạc. Ngày nay, Kerry muốn chúng ta tin rằng từ
trước đến giờ y luôn luôn chống cộng. Tuy nhiên, tài liệu lịch sử nêu
ra các nghi vấn về cả hai trường hợp này.
Người Mỹ lương thiện (trung thành) phải nghĩ kỹ về việc vi phạm điều
khoản luật pháp cấm thương thuyết với ngoai bang (điều 18 U.S.C. chương
935) và Hiến Pháp cấm chỉ việc ủng hộ kẻ thù của quốc gia trong thời
chiến (Điều III, Chương 3). Người chống Cộng không công khai ủng hộ
các đề nghị dẫn tới việc Mỹ quốc đầu hàng kẻ thù Cộng Sản, cộng thêm
đòi bồi thường chiến tranh. Không có một tài liệu công khai nào nói
về những gì mà Kerry thảo luận với Cộng Sản Việt Nam ở Ba-lê vào năm
1970. Chiến dịch tranh cử của Kerry từ chối cung cấp chi tiết về các
cuộc thảo luận ấy, họ cũng từ chối trả lời câu hỏi là ai đã sắp xếp
cuộc gặp gỡ ấy. Phải có một tiếp xúc giữa Kerry hay đại diện cùa y và
đại diện của VC. Cộng sản nào giúp Kerry trong việc dàn xếp cuộc gặp
gỡ của Kerry với bà Bình và tại sao?
Có lẽ Kerry đã tin vào trí óc của y rằng việc y tham dự vào phong trào
phản chiến đã nâng y lên một mức tinh thần mới, một vị trí ở nơi đó
y sẽ không bị hạn chế về luật pháp qui ước hoặc hiểu biết thông thường
về lòng ái quốc. Tuy nhiên, tài liệu cho biết rằng Kerry và nhóm Cựu
Chiến Binh VN Phản Chiến đã phối trí các nỗ lực của họ một cách kiên
trì với Cộng sản, cả ở trong nước lẫn ở ngoại quốc, đã đại diên cho
lập trường cộng sản, và đã nhắc đi nhắc lại những lời tố cáo phóng đại
quá đáng về các tội ác của người Mỹ. Thực vậy, thật khó mà tìm thấy
sự khác biệt giữa lời nói và hoạt động của Kerry với tư cách là lãnh
đạo của nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến với của lãnh đạo Hà nội và
VC. Nếu bà Bình được phép xuất hiện vào cuộc họp báo ngày 22 tháng 7,
1971 của John Kerry, thì có lẽ cái khác biệt đáng chú ý nhất chỉ là
thiếu vắng giọng nói của dân Boston.
Kerry rõ rệt được VC đón tiếp một cách nồng hậu. Giá trị về tuyên truyền
của y rất rõ rệt: một chiến sĩ Mỹ anh hùng có huy chương, đẹp trai,
mày râu nhẫn nhụi, nói năng hoạt bát. Liệu có một nhà hùng biện cộng
sản nào không nhận ra đây là một ứng viên sẽ chuyên chở lời tuyên truyền
chống Mỹ vào trong nước? John Kerry không có khó khăn gì được bà Bình
bổ nhiệm vào chức vụ ấy. Cộng sản đón nhận y.
PHỐI
HỢP VỚI KẺ THÙ
Mục tiêu trọng đại của nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến vào năm 1971
là gửi đại diện đến Ba Lê hoặc đến Hà nội để gặp kẻ thù.
Một báo cáo theo dõi bí mật của FBI đề ngày 11 tháng 11, 1971 đã được
phổ biến, nằm trong hồ sơ gồm 20,000 trang về nhóm Cựu Chiến Binh VN
Phản Chiến, dựa theo đòi hỏi phải công khai hoá tài liệu Mật do Đạo
Luật Tự Do Thông Tin và phổ biến trên Internet trong thời kỳ tranh cử
Tổng Thổng năm 2004. Báo cáo này cho thấy rằng FBI theo dõi các hoạt
động của Kerry để tìm biết xem đương sự có đến Ba-lê để gặp các phái
đoàn Cộng Sản không?:
John
Kerry và Al Hubbard, là các thành viên Ủy Ban Chấp Hành nhóm Cựu Chiến
Binh VN Phản Chiến, đang trù liệu đi Ba-lê trong tuần lễ 15-20 tháng
11 để thảo luận với Phái Đoàn Hoà Đàm Bắc Việt.
Một
bản phân tích các báo cáo của FBI được công bố đã nói rõ rằng mối quan
tâm của chính quyền về việc phối hợp các hoạt động của nhóm Cựu Chiến
Binh VN Phản Chiến với Cộng Sản VN được dựa trên các sự kiện làm căn
cứ. Ủy Ban chỉ đạo của nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến họp ở thành
phố Kansas, Missouri từ thứ Sáu 12 tháng 11, 1971 đến hết ngày Chủ Nhật
14 tháng 11, 1971 là một cuộc họp ồn ào, mà chi tiết buổi họp được hồ
sơ điều tra bí mật của FBI vừa được tiết lộ đã nói tới. John Kerry rõ
ràng được báo cáo của FBI liệt kê là một trong 5 thành viên của Ban
chỉ đạo ấy.
Ồn ào như pháo nổ xảy ra trong buổi họp trong một lúc khi mà một ủy
viên trong Ủy Ban Chỉ Đạo là Al Hubbard từ phi trường tới bằng xe taxi.
Hubbard là một trong những lãnh đạo bị dị nghị nhiều nhất, loan báo
cho cả nhóm biết rằng y vừa mới từ Ba-lê về và ở đó y đã gặp với phái
đòan hoà đàm của Cộng Sản VN. Hubbard đã rõ ràng vượt quá làn ranh để
sang bên kia với địch. Y báo cáo một cách thích thú rằng y đã kết thúc
thương lượng với VC, và rằng VC sẵn sang thả một nhóm tù binh Mỹ cho
nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến, với điều kiện là nhóm Cựu Chiến Binh
VN Phản Chiến cử một phái đoàn đi Hà Nội vào khoảng dịp Giáng Sinh.
Hubbard nói với nhóm rằng Đảng Cộng Sản Mỹ đã tài trợ cho chuyến đi,
và rằng bây giờ y hành động với tư cách là thành viên của Ủy Ban Phối
hợp của Liên Minh Các Dân Tộc Yêu Chuộng Hoà Bình và Công Lý.
Ta hãy cứu xét đoạn trích sau đây của hồ sơ FBI:
Al
Hubbard, người đầu tiên đứng ra tổ chức Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến
được nhiều người biết tiếng, bay đến Kansas vào lúc 6:30’ buổi chiều
thứ Sáu, 12 tháng 11. Y thảo luận ….[GẠCH BỎ VÌ LÝ DO AN NINH]. Chuyến
bay của y, một mình thôi, đến Ba-lê ở nơi đó y gặp Xuan Tiu (Xuân Thủy,
chú thích của người dịch). Y vừa mới đi chuyến này về. Xuan Tui , một
trong đại biểu của Bắc Việt tại cuộc Hoà Đàm, và các đại diện của Chính
Phủ Cách Mạng Lâm Thời (CPCMLT), và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH)
nói chuyện với Hubbard. Hubbard nói rằng CPCMLT là đại diện cho cách
mạng ở Miền Nam, và VNDCCH là Bắc Việt. Họ muốn có sắp xếp để cho người
Mỹ (là các hoạt động viên của nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến hoặc
Nhóm Tân Tả Khuynh) đi Bắc Việt. Hubbard cũng làm cho mọi người có cảm
tưởng rằng Bắc Việt sẽ yểm trợ hành động tương lai của nhóm Cựu Chiến
Binh VN Phản Chiến, nhưng không cho biet thêm chi tiết nào khác về yểm
trợ này.
Một
báo cáo tiếp theo vài ngày sau cho thêm chi tiết:
[GẠCH
BỎ VÌ LÝ DO AN NINH]… khuyến cáo rằng Hubbard cung cấp thêm tin tức
sau đây về chuyến đi Ba-lê này.
Hai nhóm ngoại quốc, đó là VNDCCH và Chính Phủ Cộng Hoà Nhân Dân (CPCMLT)
mời đại diện của nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến, Đảng CS Mỹ, và một
Nhóm thuộc Cánh Tả ở Ba-lê đến dự những buổi họp của các nhóm chủ nhân
đứng ra mời ấy ở Ba-lê. Hubbard đề nghị rằng y được bầu để đại diện
cho nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến, và một cá nhân vô danh được bầu
để đại diện cánh tả ở Ba-lê. Y cũng nói rằng chuyến đi của y là do Đảng
CS Mỹ tài trợ. Hubbard nói rằng khi ở Ba-lê, một người tên là…… hướng
dẫn quan khách và đóng vai liên lạc giữa khách viếng thăm và chủ.
Huhbard nói khi ở Ba Lê y gặp một người tên là Swanwee, đại diện của
Bắc Việt. Họ nói về vấn đề Tù Binh và có thể là phái đoàn Cựu Chiến
Binh VN Phản Chiến đi Việt Nam trong tương lai gần và bàn về vấn đề
có thể thả tù binh Mỹ.
[GẠCH BỎ VÌ LÝ DO AN NINH] ………. khuyên rằng sau khi Hubbard nói về chuyến
đi,……….. và John Kerry, người……………….[GẠCH BỎ VÌ LÝ DO AN NINH]
Một
lần nữa “Swanwee” được nói tới ở trên là Xuân Thủy, trưởng phái đoàn
thương thuyết CS Bắc Việt.
Joe Urgo, một ủy viên trong ban chấp hành cấp quốc gia của nhóm Cựu
Chiến Binh VN Phản Chiến nói tiếp theo sau Ủy Ban chỉ đạo. Theo báo
cáo của FBI, Urgo xác quyết quan điểm của Hubbard rằng CSVN đón chào
thành viên nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến đến Hà nội. Báo cáo của
FBI nói rõ rằng các cuộc thảo luận của nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến
với VC nhằm phát huy phong trào phản chiến tại Mỹ. Chữ “Xuan Tui” nói
trong Báo Cáo chắc chắn là Xuân Thủy, trưởng phái đoàn thương thuyết
Bắc Việt. Điều này chỉ dẫn cho thấy rằng nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản
Chiến muốn hoạt động cho VC để đề cao mục tiêu của VC, không phải là
theo đuổi một chương trình riêng biệt hay gì khác của nhóm Cựu Chiến
Binh VN Phản Chiến.
Joe
Urgo đi theo Hubbard trong buổi họp vào tối thứ sáu và vào chiều Chủ
Nhật, 14 tháng 11. Chính Urgo nói thêm, liên quan đến vấn đề nhóm Cựu
Chiến Binh VN Phản Chiến có thể thúc đẩy Bắc Việt thả tù binh. Không
biết rõ Urgo hay Hubbard xác định rằng việc thả tù binh đó có là một
phần trong chuyến đi kế tiếp của nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến đến
VN hay không.. Nhưng người ta hi vọng rằng đây là lý do nhóm Cựu Chiến
Binh VN Phản Chiến đi Hà nội. Hubbard nói rằng y sẽ biết việc này 10
ngày sau khi rời Ba-lê hoặc vào khoảng 23 hay 24 tháng 11, khi mà trong
tương lai gần và bao nhiêu thành viên của nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản
Chiến sẽ được phép đi Bắc Việt, và như vậy những ngừơi đi trong chuyến
này sẽ được Ban Lãnh Đạo nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến cấp quốc
gia chỉ định vào lúc đó. Hãy lập một danh sách 10 đến 12 người để đi
trong chuyến này [GẠCH BỎ VÌ LÝ DO AN NINH]
Urgo, một người đã đi Bắc Vệt về vào tháng 8 với [GẠCH BỎ VÌ LÝ DO AN
NINH] của Liên Đòan Phản Đối Chiến Tranh và …… của nhóm Phụ Nữ Tấn Công
Cho Hoà Bình, phát biểu y như là y đang làm công cho các viên chức Bắc
Việt. Urgo nói rằng Bắc Việt không muốn chủ điểm của Nhóm Tân Cánh Tả
ở Mỹ chuyển vấn đề chống chiến tranh sang vấn đề khác. Như vậy, họ không
muốn thảo luận việc trao đổi tù binh trong chuyến đi của nhóm Cựu Chiến
Binh VN Phản Chiến đến Bắc Việt, nhưng họ muốn giáo dục về ý thức hệ
cho nhóm khách nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến này.
Theo
một số báo cáo của FBI tường thuật về các buổi họp đó, John Kerry cho
biết rằng y có mặt ở đó và nghe các cuộc thảo luận. Một báo cáo theo
dõi khác của FBI, nộp vào ngày 24 tháng 11, 1971 đã xác nhận báo cáo
ngày 19 tháng 11. John Kerry cũng đã được ghi nhận là có hiện diện với
tư cách thành viên Ban Chấp Hành.
Hồ sơ công khai cho thấy Kery tiếp tục đại diện nhóm Cựu Chiến Binh
VN Phản Chiến trong các buổi nói chuyện trước công chúng đến tháng 4
năm 1972, chừng 5 tháng sau khi Kerry biết rằng Al Hubbard, đã có lần
là một người ở trong “đám anh em” phản chiến đi vượt quá lằn ranh sang
bên kia với phe cộng sản. Người ta không thấy bất cứ ở chỗ nào trong
hồ sơ của FBI có báo cáo rằng Ủy Ban Lãnh Đạo ngừng thảo luận Bộ luật
18 U.S.C chương 953 về việc trực tiếp cấm công dân Hoa Kỳ đi thương
thảo với ngoại bang, hoặc Khoản III, chương 3 của Hiến Pháp Hoa Kỳ.
Khoản này định nghĩa một phần tội phản nghịch là yểm trợ và giúp đỡ
kẻ thù trong thời chiến. Rõ ràng rằng các người lãnh đạo nhóm Cựu Chiến
Binh VN Phản Chiến hiểu bản chất nghiêm trọng về những hoạt động của
họ. Qua suốt các buổi họp vào cuối tuần, họ thay đổi nơi họp hai lần
để tránh nhà chức trách theo dõi. Họ thấy vô vọng vì FBI có rất nhiều
người cho tin nằm trong các buổi họp.
Hồ sơ theo dõi của FBI ngày nay trở thành công khai rõ ràng cho thấy
rằng nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến cho đến tháng 11,1971 có hoạt
động trực tiếp với kẻ thù để chống lại mục tiêu quân sự của Mỹ trong
một cuộc chiến tranh. Nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến không ngừng
các nỗ lực phá hoại công cuộc hỗ trợ chiến tranh tại Mỹ bằng cách tuyên
truyền quảng bá các tội ác chiến tranh giả tạo. Cũng thật rõ ràng rằng
tích cực vận động thả tù binh là bằng cớ khác về việc này, và đi từng
bước tích cực khuyến khích quân nhân ngoài mặt trận từ chối mệnh lệnh
chiến đấu với quân thù là các bằng cớ khác. Việc sản xuất các băng ghi
âm để phổ biến ở Việt Nam để dụ dỗ quân nhân Mỹ ngừng chiến đấu có nói
tới việc thương thuyết với địch và viện trợ trực tiếp cho địch trong
thời chiến.
John Kerry, cho tới gần đây tuyên bố rằng y đã từ chức khỏi nhóm Cựu
Chiến Binh VN Phản Chiến vào tháng 6, 1971, đã thú nhận rằng y còn hiện
diện ở đó, y như các báo cáo của FBI cho biết và một số nhân chứng xác
nhận. Còn nữa, Kerry nhấn mạnh rằng y không nhớ gì về các buổi họp ở
Kansas, một khiếm khuyết về trí nhớ đánh dấu rõ rệt về bản chất của
những gì được thảo luận. Người ta có đủ lý do tin rằng trước khi có
cuộc họp ở Kansas vào tháng 11,1971, chính Kerry đã đến Ba-lê lần thứ
hai để gặp VC. Bằng cớ về vụ này là do sử gia Gerald Nicosia, một kẻ
rất thân với nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến, và cũng là người ủng
hộ Kerry, đã viết một bài cho tờ báo của tổ chức có tên là Home to War:
Một lịch sử của Phong Trào Cựu Chiến Binh Chiến Đấu tại VN. Nicosia
chiếu theo Đạo Luật Tự Do Thông Tin đã nêu ra đòi hỏi FBI phải đưa ra
công khai hồ sơ gồm 20,000 trang tài liệu về nhóm Cựu Chiến Binh VN
Phản Chiến và John Kerry. Viết trên tờ Los Angeles Times vào ngày 24
tháng 5, 04. Nicosia nói “Hình ảnh Kerry trước công chúng bị lu mờ nhiều
nhất từ 1971 là do vội vã mang tù binh Mỹ trở về. Hồ sơ ghi rằng Kerry
đi Ba-lê lần thứ hai vào mùa hè năm đó để tìm biết xem Bắc Việt có thả
tù binh hay không”.
Các cuộc bàn thảo của nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến đi Ba-lê và
Hà Nội được ghi nhận trong suốt các báo cáo theo dõi của FBI. Các cuộc
thảo luận ấy rõ ràng cho thấy mục tiêu của họ không phải là dàn xếp
thả tù binh, nhưng là nâng cao vai trò của nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản
Chiến, và đề cao mục tiêu của phong trào phản chiến nhờ đó mà tù binh
Mỹ được trao cho nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến. Hồ sơ FBI ngày nay
được công khai hoá nêu ra một điểm khá rõ: John Kerry và các đồng chí
Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến của y là khách mời được VC đón tiếp ở Ba-lê
và cả ở Hà nội, những người khách được nhờ vả khi trở về Mỹ hoạt động
và tích cực yểm trợ kẻ thù thời chiến của nhóm lãnh đạo ấy ở Hoa Kỳ.
HOẠT
ĐỘNG PHẢN CHIẾN CỦA JOHN KERRY VÀ BÁO CHÍ CỘNG SẢN
Đảng Cộng Sản Mỹ lập ra tờ Daily Workers vào năm 1924. Vào thập niên
1970, tờ báo đó được phát hành dưới một khẩu hiệu khác là Daily World.
Phát hành ở New York, tờ báo chú trọng khai triển các chuyện ở Mỹ. Nhiều
báo của CS khắp trên thế giới in lại các chuyện của Daily World với
các khẩu hiệu khác nhau. Năm 1971, Daily World tập trung nhiều nỗ lực
tường thuật về hoạt động của Kerry và nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến.
Lúc đó thế giới Cộng Sản hiểu rõ những gì mà John Kerry lại phủ nhận,
và cả đến ngày nay cũng vẫn phủ nhận. Phong trào phản chiến mà điển
hình là nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến không đơn thuần là một phong
trào phản kháng suông. Về điểm chính của nó thì nhóm Cựu Chiến Binh
VN Phản Chiến đã thú nhận là chống Mỹ, cố ý đưa ra những lời nói dối
về Tội Ác Chiến Tranh mà lính Mỹ phạm phải hàng ngày. Mục tiêu mà nhóm
Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến muốn đạt được qua các cuộc biểu tình được
quảng cáo nhiều ở Hoa Thịnh Đốn vào tháng 4, 1971 chỉ là để gửi một
thông điệp: Hoa Kỳ đã mất hết đạo đức trong công cuộc chống Việt Cộng.
Kerry, người phát ngôn cho nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến đã thổi
kèn đề cao chủ điểm này mà thế giới Cộng Sản muốn nghe. Đại úy hải quân
John Kerry không có thể là một tay sai cầm biển quảng cáo cho tờ Daily
World tốt đẹp hơn là nếu y được chính cơ quan tình báo Liên-Sô KGB tuyển
mộ và huấn luyện.
Ngày nay, đang ứng cử vào chức vụ Tổng thống năm 2004, John Kerry có
thể phản bác rằng tờ báo Cộng Sản Daily World được tự do tường thuật
bất cứ ai mà tờ báo chọn, và rằng y không tìm cách để tờ báo đó tường
thuật hoặc thực hiện các cuộc phỏng vấn. Tuy nhiên thực sự thì bất cứ
ai có biết chữ vào thời gian đó, bất cứ ai có tham dự sâu xa vào cuộc
chiến đấu chính trị và đạo đức của cuộc chiến đấu này là Việt Nam, không
có thể bỏ qua tầm ảnh hưởng của các bài tường thuật liên tục mà Daily
World dành cho Dewey Canyon III của nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến
vào cuộc biểu tình vào tháng 4, 19171 ở Hoa Thịnh Đốn.
Vào ngày thứ Sáu, 23 tháng 4, 1971, tờ Daily World cho in bức hình của
John Kerry trên trang nhất, đang đứng trên diễn đàn, phụ giúp cho cựu
Bộ trưởng tư pháp Ramsey Clark bằng cách đưa tay cho ông này ít giấy
tờ trong khi Clark nói chuyện với đám đông trên thềm Quốc Hội. Dòng
chữ ghi dưới hình đó chỉ danh John Kerry, một cựu Đại úy hải quân và
lãnh đạo của nhóm. Ramsey Clark lúc đó là cố vấn luật pháp cho nhóm
Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến, nhóm này đang tích cực tranh tụng trước
Tối Cao Pháp Viện về một án lệnh cấm họ đến National Mall của Quốc Hội,
nơi mà họ đã chọn làm chỗ cắm trại trong thời gian họ biểu tình ở Hoa
Thịnh Đốn. Ngày hôm sau, thứ Bảy, 24 tháng 4, 1971 Daily World lại in
hình John Kerry nữa trên trang nhất, ở thế ngồi với vẻ tư lự suy nghĩ,
ngón tay chỏ để trên má với vẻ nghiêm trang: trong lúc đang ở trước
Ủy Ban Ngoại Giao.
KERRY
CA TỤNG HỒ CHÍ MINH
Các báo cáo theo dõi Kerry ở các nơi có chứa tài liệu về một bài nói
chuyện của Kerry vào năm 1971 trong đó y ca tụng Hồ chí Minh, người
sáng lập Đảng CSVN. Đó là dịp Kerry nói chuyện cho YMCA ở Philadelphia
vào ngáy 14 tháng 6, 1971. FBI báo cáo:
Ngày
29 tháng 6, 1971, [GẠCH BỎ VÌ LÝ DO AN NINH]... khuyên John Kerry thuộc
Văn Phòng Quốc Gia của nhóm Cựu Chiến Binh VN Phản Chiến đến nói chuyện
ở YMCA, Philadelphia vào ngày 14 tháng 6, 1971. Trong buổi nói chuyện
này, y tuyên bố Hồ chí Minh là Geroge Washington của Việt Nam. Hồ nghiên
cứu Hiến pháp Mỹ và muốn đem những điều khoản này vào Chính quyền VN.
Kerry chỉ trích các hoạt động của Hoa Kỳ ở VN, nói rằng chúng ta đang
tàn phá làng mạc, thị trấn, mùa màng, nhân dân ở đó, và hoạt động ấy
phải được chấm dứt.
Kerry
đã thực hiện rất nhiều buổi nói chuyện phản chiến vào năm 1971. Khuynh
hướng của y là thần thánh hoá Cộng Sản Việt Nam và mô tả Mỹ như con
Quỉ có thể được biểu lộ rõ rệt nhất khi hắn ta ca tụng HCM bằng cách
so sánh người cha đẻ lập ra Mỹ Quốc (TT. George Washington) với một
người chịu trách nhiệm mang Chủ Nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam ./.
TÁC GIẢ: JOHN E. O’NEILL VA TIẾN SĨ JEROME
R. CORSI.
DịCH GIẢ: GS. NGUYỄN VĂN CANH,
GIÁM ĐỐC TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VIỆT NAM.
Hình John Kerry chụp
chung với Đỗ Mười (bên phải), Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản VN được trưng
bày trang trọng và vinh danh tại "viện bảo tàng chứng tích chiến
tranh" tại thành phố HCM (Sài Gòn) như là những anh hùnh, các nhà
tranh đấu phản chiến ở ngoại quốc góp phần vào chiến thắng 1975 của
CSVN.
Photo: BILL LUPETTI
RETURN
TO FRONT PAGE
|
|
|