Paris,
09 tháng Bảy/2005 - Áo khoác vải tuýt thanh lịch, ngồi nhấm nháp
nước quả ép trong một quán café bên tả ngạn (sông Seine), nhà
văn Dương Thu Hương không có vẻ gì của một nhân vật nguy hiểm.
Nhưng bà Hương, 58 tuổi, quả thật nguy hiểm ở Việt Nam, nơi bà
từng ở tù, bị cấm in sách, và suốt 11 năm không được phép ra nước
ngoài.
Tội lỗi của bà thì nhiều lắm. Tiểu thuyết của
bà, mổ xẻ cuộc sống ở một trong vài xứ cộng sản còn sót lại,
được phương Tây ấn hành và đón nhận nồng nhiệt. Bà là cựu đảng
viên bị khai trừ như kẻ phản bội. Và sau cùng, bà là kẻ phản
động – “con đĩ phản động”, như một vị lãnh đạo Đảng
đã gọi – kẻ từ chối im lặng thậm chí sau tám tháng tù giam vào
năm 1991.
Ðây là lần thứ hai bà được phép đến châu Âu
[1] . Trong ý nghĩa nào đó, Việt Nam đã cùng bà đến đây. Bà
sẵn lòng trò chuyện về cuộc sống và năm cuốn tiểu thuyết, bao
gồm tác phẩm mới nhất, Chốn Vắng (No Man’s Land) xuất bản ở
Mỹ hồi tháng Tư. Nhưng bà dành ưu tiên cho việc lên án chính
phủ Hà Nội, một chính phủ tham nhũng và lạm quyền.
“Ðó là nghĩa vụ của tôi, nhân danh những người đã chết vì chế
độ đáng xấu hổ này”, bà nói tiếng Pháp, nặng giọng nước ngoài
nhưng trôi chảy. “Vì có chút uy tín ở nước ngoài, tôi phải lên
tiếng. Tôi phải giãi bày tâm can để lương tâm thanh thản. Người
ta đã đánh mất sức mạnh để phản ứng, để suy tư, để tư duy. Có
thể tôi sẽ mang đến cho họ can đảm”.
Hơn lúc nào hết, bà cảm thấy sự cấp bách của những thông điệp
này. Ba mươi năm sau chiến tranh, chế độ đang giành được nhiều
ủng hộ bên ngoài bằng vào chính sách mở cửa kinh tế đối với
ngoại quốc, dưới một chiến lược cộng sản pha lẫn tư bản. Bà
báo động về việc thủ tướng Phan Văn Khải được tổng thống Bush
tiếp ở Nhà trắng tháng trước.
“Chế độ tàn bạo và ti tiện này đang làm rất nhiều thứ để bịp
người nước ngoài”, bà nói trong cuộc trò chuyện. “Nếu ông Bush
ủng hộ chế độ này, nó sẽ hệ lụy đến một cuộc chiến mới, nhấn
chìm nhân dân xuống bùn. Thay vì B-52, lần này nó sử dụng chính
tay những kẻ phản bội bản xứ”.
Cho đến tận hôm nay, bà nói tiếp, chiến tranh Việt Nam vẫn
còn được dùng để biện minh việc chính quyền thâu tóm quyền lực
về tay mình.
“Tất cả sự tuyên truyền nhằm nuôi dưỡng huyền thoại chiến tranh,
tâng bốc và hăm dọa nhân dân”, bà nói. “Nó nói với họ: nhân
dân anh hùng. Nhân dân nên hãnh diện về lịch sử. Nhưng đừng
bao giờ quên Đảng là người đã lãnh đạo nhân dân đến thắng lợi.
Nó đánh lừa nhân dân bằng lòng tự hào mù quáng”.
Cuộc đời của bà Hương, dĩ nhiên, cũng bị chi phối bởi chiến
tranh.
Bà cho biết lúc nhỏ không được học đến nơi đến chốn vì không
thuộc giai cấp công nông vô sản: bà của bà Hương là địa chủ
di cư vào Nam giữa những năm 1950. Tuy vậy, lúc 16 tuổi, bà
Hương được phép gia nhập một đoàn sân khấu lưu động, và vì có
khả năng, được gởi đi học trường nghệ thuật, nơi đào tạo diễn
viên kịch, múa, ca sĩ quần chúng.
Một lần nữa, vì học rất khá nên năm 1968, bà được phép chọn
đi học ở Liên Xô, Ðông Ðức, hoặc Bulgaria. “Nhưng tôi chọn tiền
tuyến vì đất nước đang có chiến tranh, tổ tiên tôi là những
người chiến đấu cho đất nước”, bà nói. “Tôi tham gia đoàn văn
công trẻ biểu diễn cho chiến sĩ và nạn nhân chiến tranh. Khẩu
hiệu là: ‘Tiếng hát át tiếng bom’. Chúng tôi dập tắt rên la
bằng những bài hát.”
Nhưng ngày thời điểm đó, bà nhớ lại, bà đã nhận thấy các đảng
viên được ưu đãi đặc biệt. Sự choáng váng còn lớn hơn khi các
tù binh miền Nam được đưa đến khu vực của bà. “Tôi nhận ra sự
thực là chúng tôi cũng đang đánh nhau với người Việt”, bà nói.
“Vâng, chúng tôi bị người Mỹ dội bom liên tục, nhưng họ ở tít
trên trời xanh và tôi chẳng bao giờ thấy họ. Tôi chỉ thấy người
Việt”.
Bà giữ ý nghĩ đó cho riêng mình, như bà đã làm sau chiến tranh,
khi gặp lại bà con ở Sài Gòn, và nhận ra rằng kẻ chiến bại khá
hơn nhiều so với kẻ chiến thắng. Lúc đó, bà đang tổ chức hoạt
động nghệ thuật ở Huế. Năm 30 tuổi, bà quay ra Hà Nội làm việc
cho ngành điện ảnh nhà nước. “Tôi viết 5 kịch bản được làm thành
những bộ phim tồi” bà nói, “không thể sống bằng đồng lương”.
Một việc làm thêm khác cũng mở mắt bà. Làm việc cho một nhóm
tướng lãnh, bà tham gia viết [ẩn danh] lịch sử chiến tranh Việt
Nam. “Các ông tướng thảo luận riêng việc phải sửa văn bản của
tôi thế nào để hợp với quyền lợi của họ”, bà nói. “Họ muốn tăng
con số người tử trận nhằm trình diễn sự hy sinh vĩ đại vì nhân
dân”.
Ðược đề nghị từ 1979, Bà Hương do dự gia nhập Đảng năm 1985,
theo sự thúc giục của bạn bè, những người tin bà có thể giúp
họ. Ðó cũng là năm tác phẩm đầu tay của bà, Bên kia bờ ảo vọng,
được in ở Việt Nam và bán đến 100.000 bản. Nhưng hai năm sau,
với sự xuất hiện của Những thiên đường mù, một tác phẩm bán
chạy khác, vấn đề bắt đầu.
“Ông tổng bí thư Nguyễn Văn Linh sẵn sàng cấp cho tôi một căn
nhà tiêu chuẩn bộ trưởng nếu tôi im lặng”, bà nói. “Tôi nói
với ông ấy, ‘tôi đấu tranh cho dân chủ, tôi đứng về phía nhân
dân và sẽ chẳng bao giờ đồng ý làm một thứ bộ trưởng’. Nguyên
tắc của tôi là người ta có thể mất hết, thậm chí mạng sống,
nhưng không bao giờ để mất danh dự.”
Không lâu sau đó, bà nói, bà thoát được hai âm mưu ám sát.
Ðại hội nhà văn Việt Nam năm 1989, bà viết bài phát biểu “Ðảng
nên cám ơn nhân dân”, và bị ồn ào khai trừ Đảng. Năm 1991, Dương
Thu Hương bị tống giam vì tội bán tài liệu mật cho nước ngoài,
“tài liệu mật” là bản thảo tác phẩm của bà. Không có gì ngạc
nhiên, ba cuốn sách tiếp theo – Tiểu thuyết vô đề, Hồi quang
của mùa xuân và Chốn vắng – vẫn chưa được xuất bản ở Việt Nam.
Nhưng tất cả các tiểu thuyết của Dương Thu Hương đã được xuất
bản bằng nhiều thứ tiếng. Nhờ Will Schwalbe, lúc đó ở nhà xuất
bản William Morrow và hiện là tổng biên tập của Hyperion, sách
của bà được in bằng tiếng Anh. “Ðầu tiên tôi nghe về bà Hương
khi bà đang ở tù”, ông Schwalbe nói trong một cuộc phỏng vấn
qua điện thoại từ New York. “Tôi đọc khoảng ba bốn chục trang
Những thiên đường mù và thật sự kinh ngạc. Ðó là tiểu thuyết
Việt Nam đầu tiên được dịch ra tiếng Anh và xuất bản tại Mỹ”.
Các tiểu thuyết của Dương Thu Hương không trực tiếp đề cập
chính trị, chủ đề quán xuyến là sự vỡ mộng của những con người
mà số phận bị trói bẫy ngoài ý muốn. Nhận xét về Hồi quang của
mùa xuân trên New York Times năm 2000, Richard Bernstein viết:
“Người ta đọc cuốn sách chắn chắn vì lý do chính trị, nhưng
hơn hết, vì chiều sâu và sự phức tạp của nhân vật, những kẻ
nỗ lực khẳng định mình trong một thế giới áp đặt mọi người,
mọi thứ vào các loại chủ thuyết và tâm cảm quốc gia”.
Năm 1994, nhờ sự can thiệp của phu nhân tổng thống Pháp, Danielle
Mitterrand, bà Hương được sang Pháp nhận một giải thưởng. Bà
được đề nghị hưởng quy chế tị nạn chính trị. “Tôi trả lời, ‘cám
ơn, nhưng ở nước tôi, sự sợ hãi đang nghiền nát mọi thứ, những
người lính can đảm đã trở nên thường dân hèn nhát’, bà nhớ lại.
“Vì vậy tôi phải trở về. Tôi trở về để làm điều duy nhất: phỉ
nhổ vào mặt chế độ.’”
Lần này, tòa đại
sứ Ý ở Việt Nam lấy được hộ chiếu cho bà, nhưng chỉ sau vài
tuần ở Ý và Pháp, bà lại sắp trở về Hà Nội, nơi hai người con
và bốn đứa cháu của bà đang sống. (Bà Hương ly hôn năm 1982).
Về nhà, nếu chính phủ lại không có âm mưu gì khác, bà cho biết
sẽ tiếp tục viết. “Tôi là người lý tưởng”, bà nói, trước khi
thêm nụ cười tinh quái, “và cũng khờ dại”.
|
|
PARIS,
July 9/2005 - Wearing an elegant tweed jacket and sipping fruit
juice in a Left Bank cafe here, the writer Duong Thu Huong hardly
cuts a threatening figure. But Ms. Huong, 58, evidently does in
her native Vietnam, where she has spent time in jail, has seen her
books banned and for 11 years was denied a passport to travel abroad.
Her sins, it seems, are many. Her novels dissecting life under one
of the last Communist regimes are published and well received in
the West. She is a former Communist Party member who was expelled
as a traitor. And above all, she is a dissident - a "dissident
whore," one party leader said - who refused to be silenced
even after spending eight months in prison in 1991.
Now,
for the second time, she has been allowed to travel to Europe.
But in a sense, Vietnam has traveled here with her. She is willing
to talk about her life and to discuss her five novels, including
her latest, "No Man's Land," published in the United
States in April. But her priority is to denounce the Hanoi government
as irremediably corrupt and abusive.
"It
is my mission to do so on behalf of those who have died under
this shameful regime," she said, speaking fluent but heavily
accented French. "Because I have a small reputation abroad,
I have to say these things. I have to empty what is inside me
to feel my conscience is clear. The people have lost the power
to react, to reflect, to think. Perhaps I will give people courage."
She
feels her message is more urgent than ever. Thirty years after
the Vietnam War, she sees the regime gaining acceptance abroad
by opening up its economy to foreigners under a communism-with-capitalism
strategy. She also noted with alarm that Vietnam's prime minister,
Phan Van Khai, was received by President Bush at the White House
last month.
"It
is a brutal and ignoble regime that does lots of things to fool
foreigners," she said during a long conversation. "If
Bush supports this regime, it will be engaging in another war
that will drive the people into the mud. This time, instead of
using B-52 bombers, it will be using the hands of native turncoats."
Until
now, she went on, the Vietnam War served to justify the government's
grip on power.
"All
its propaganda is designed to feed the myth of the war, to flatter
and threaten the people," she said. "It tells them:
'You are a heroic people. You should be proud of your history.
But never forget that it was the party that led the people to
victory.' It deceives the people with blind pride."
Ms.
Huong's life, too, was inevitably shaped by the war.
As
a child, she said, she was refused a good education because she
belonged to neither the peasantry nor the proletariat class: her
grandmother was a landowner who in the mid-1950's moved to South
Vietnam. But, at 16, Duong Thu Huong (pronounced zung tu hung)
was allowed to join a nomadic theater troupe and, showing talent,
was then sent to a college training actors, dancers and singers
for popular entertainment.
There
she again did well and in 1968 was offered the chance to study
in the Soviet Union, East Germany or Bulgaria. "But I chose
to go to the front because our country was at war and my ancestors
have always fought for our country," she said. "I joined
a group of young artists performing for the troops and victims
of the war. The slogan was: 'Our songs are louder than the bombing.'
We would silence the screams with songs."
But
even then, she recalled, she noticed that party members enjoyed
special privileges. A bigger shock followed when South Vietnamese
prisoners arrived in her zone. "I discovered the truth that
we were also fighting Vietnamese," she said. "Yes, we
were being bombed all the time by the Americans, but they were
high in the sky and I never saw them. I only saw Vietnamese."
She
kept her thoughts to herself, as she did after the war when she
met up with relatives in Ho Chi Minh City (as Saigon was renamed)
and realized that the defeated were better off than the victors.
By then, she was organizing artistic events in the city of Hue.
When she was 30, she returned to Hanoi to work in the government's
movie industry. "I wrote five screenplays which were made
into bad films," she said, "but I couldn't live off
my salary."
One freelance job proved to be another eye-opener. Working for
a group of army generals, she ghost wrote a history of the Vietnam
War. "The generals would discuss among themselves how to
correct my text to suit their interests," she said. "They
wanted to increase the number of Vietnamese who died to show that
no sacrifice was too great for the people."
Ms. Huong said she was invited to join the Communist Party in
1979 and did so reluctantly in 1985 at the urging of friends who
hoped she could help them. That was also the year that her first
novel, "Beyond Illusions," was published in Vietnam
to popular acclaim, selling 100,000 copies. But two years later,
she said, with the publication of "Paradise of the Blind,"
another best seller, her problems began.
"The
party's general secretary, Nguyen Van Linh, offered me a house
of the kind reserved for ministers if I would remain silent,"
she said. "I told him, 'I fight for democracy, I place myself
on the side of the people and would never agree to be like a minister.'
My principle is that you can lose everything, even your life,
but never your honor."
Soon
afterward, she said, she evaded two assassination plots. She wrote
a speech for the 1989 Congress of Vietnamese Writers called "The
Party Should Thank the People" and was duly drummed out of
the party. In 1991 she was jailed for selling secret documents
to foreigners, the "secrets" being her manuscripts.
Unsurprisingly, her next three books - "Novel Without a Name,"
"Memories of a Pure Spring" and "No Man's Land"
- have not been published in Vietnam.
But
all her novels have been published in several foreign languages.
And thanks to Will Schwalbe, then at William Morrow and now editor
in chief at Hyperion, they have also appeared in English. "I
first heard about her when she was in prison," Mr. Schwalbe
said in a telephone interview from New York. "I read 30 or
40 pages of 'Paradise of the Blind' and was blown away. It was
the first Vietnamese novel ever published in the United States
in translation."
Ms.
Huong's novels are not openly political, but their leitmotif is
the disillusionment of people trapped by a fate beyond their control.
Reviewing "Memories of a Pure Spring" in The New York
Times in 2000, Richard Bernstein wrote: "One reads it certainly
for its politics, but even more for the depth and complexity of
its characters who strive to define themselves in a world that
still puts everything and everybody in one or another category
of ideology and national aspiration."
In
1994, through the intervention of Danielle Mitterrand, France's
first lady at that time, Ms. Huong was allowed to come to France
to receive an award. She was offered political asylum. "I
said, 'Thank you, but in my country fear crushes everything, brave
soldiers have become cowardly civilians,' " she recalled.
" 'That's why I have to return. I return to do one thing:
to spit in the face of the regime.' "
This
time, the Italian Embassy in Vietnam obtained her passport, but
after a few weeks in Italy and France, she again intends to return
to Hanoi, where her two children and four grandchildren live.
(Ms. Huong was divorced in 1982.) And once there, if the government
has no other plans, she says she will continue writing. "I
am an idealist," she said, before adding with a mischievous
smile, "and an imbecile, too."
|