|
545
E. Saint John St.
San Jose, CA 95112
USA
Tel: (408) 998-0508
Fax: (408) 993-0527
Email:
saigonusanews
@yahoo.com
|
|
|
V
Ă N H Ó A & G I Á O D
Ụ C
Từ
Phan Liêu, Đặng Dung đến Nguyễn Trải
TÂM SỰ CỦA
MỘT THẾ HỆ TRƯỚC NHỮNG BIẾN ĐỘNG
CỦA ĐẤT NƯỚC Ở ĐẦU THẾ KỶ THỨ XV
Nguyễn
Xuân Phước
1.
Vào cuối thế kỷ thứ 14 nước Đại Việt bắt đầu một giai
đoạn suy vong. Các vị vua cuối cùng nhà Trần nhu nhược, yếu hèn.
Từ những chiến công hiển hách đại thắng quân Nguyên của Trần Hưng Đạo,
Trần Quang Khải ở đầu thế kỷ thứ 13, đến giai đoạn nầy, nhà Trần đã
mất đi năng lực quốc phòng để gìn giữ biên giới. Nước Chiêm Thành nhỏ
bé ở phương nam, dưới sự lãnh đạo của Chế Bồng Nga, đã hơn 10 lần đem
quân vượt biên giới phía nam xâm phạm lãnh thổ và ba lần đem quân tàn
phá kinh đô Thăng Long.
Trong bối cảnh đó, Hồ Quí Ly xuất hiện như một cái phao cứu vãn nhà
Trần. Ông đã giúp triều đình cũng cố lại triều chính và quân đội. Thủy
quân Đại Việt đã giết được Chế Bồng Nga, chấm dứt được hoạ xâm lược
của Chiêm Thành. Nhưng cái phao cứu sinh Hồ Quí Ly đã trở thành sợi
dây thòng lọng lịch sử cho nhà Trần. Với khôn ngoan và mưu lược cùng
với quyền lực trong tay, ông đã chấm dứt nhà Trần và mở ra triều đại
nhà Hồ.
Hồ Quý Ly là một con người đầy tham vọng, và là một nhà chính trị tài
giỏi quyền biến. Nhưng Hồ Quý Ly phải đương đầu với tham vọng to lớn
hơn ở phương bắc. Đó là tham vọng của Minh Thành Tổ, một hoàng đế thông
minh đảm lược vừa mới cưóp ngôi người cháu ở Kim Lăng, Trung Hoa.
Đầu thế kỷ 15 là thời gian Trung Hoa đã được bình định và bước vào giai
đoạn phục hưng. Năm 1398, Minh Thái Tổ băng hà. Ông truyền ngôi lại
cho cháu đích tôn, tức là Huệ Đế. Năm 1402, Huệ đế bị chú là Yên Vương
Lệ (Chu Di) cứớp ngôi. Yên vương Lệ lên ngôi tức là Minh thành Tổ.
Dưới thời Minh Thành Tổ, ông đã cho tổ chức hạm đội viễn dương với 48
chiếc tàu và 28.000 thủy binh dưói quyền chỉ huy của đô đốc Trịnh Hoà
viễn du khắp nơi trên thế giới. Sử cho biết hạm đội Trịnh Hoà (Zheng
He) thực hiện 7 chuyến viễn du, đã chinh phục các nuóc Nam Á, qua tận
Phi châu, đem về cho Minh Thành Tổ rất nhiều vật lạ quí hiếm và sự thần
phục của các vương quốc xa xôi.
Sự kiện nầy nói lên một điều là đối lực của dân quân Đại Việt bấy giờ
là Minh Thành Tổ, một triều đại cực thịnh của Trung Hoa.
Minh Thành Tổ muốn mở rộng biên giới về phương nam. Nhân cơ hội một
số quan lại nhà Trần chạy qua Kim Lăng dâng sớ tố cáo nhà Hồ cướp ngôi
nhà Trần, nhà Minh đã phất ngọn cờ Diệt Hồ Phù Trần, để đem quân sang
Đại Việt.
Năm 1406 Minh Thành Tổ phong Chu Năng làm Chinh Di Đại Tướng Quân, Trương
Phụ làm Chinh Di Hữu Phó Tướng Quân cùng Mộc Thạnh làm Chinh Di Tả Phó
tướng quân thống lĩnh 80 vạn quân chia làm hai cánh tràn xuống nước
ta. (ĐVSKTT 307)
Thực chất của chiến dịch chinh nam với 800 ngàn quân dưới nhãn hiệu
Diệt Hồ Phù Trần của nhà Minh là cuôc chiến tranh xâm lược đi liền với
một cuộc di dân vĩ đại. Minh Thành Tổ muốn giải quyết vấn đề biên giới
phương nam một lần đủ cả. Cái tàn dư của nòi giống Bách Việt ngoan cố
luôn luôn là cái gai và thách đố văn hoá với nòi Hán. Ông muốn bình
định Đại Việt để Đại Việt trở thành quận huyện của Trung Hoa như Ngô
Việt, Mân Việt trước đây. Do đó, cuộc chinh nam lần nầy không phải chỉ
là một cuộc viễn chinh quân sự thuần túy. Minh Thành Tổ đã phát động
chiến tranh xâm lược tổng hợp quân sự, văn hoá và huyết thống. Đoàn
quân 800,000 người đó có tác dụng pha loãng giòng máu của dân Việt ở
phương nam, và làm thay đổi nếp sống và văn hoá Việt để đồng hoá vào
Trung Hoa.
Đồng thời, mặt trận tâm lý với khẩu hiệu Diệt Hồ Phù Trần của Minh Thành
Tổ đã đánh vào nhược điểm về giá trị chính thống của chính quyền Hồ
Quí Ly. Đòn tâm lý nầy gây giao động mạnh mẽ trong quần chúng và chi
phối mạnh mẽ ý chí chống xâm lăng của quân dân Đại Việt. Mất tính chính
thống, Hồ Quí Ly mất năng lực đạo đức để lãnh đạo công cuộc kháng chiến.
Hồ Quí Ly đã thất bại trên mặt trận chiến tranh chính trị trước khi
mặt trận quân sự bị sụp đổ.
Sự thất bại của nhà Hồ trong việc lãnh đạo công cuộc chiến đấu chống
quân Minh đã đưa Đại Việt vào vòng nô lệ bắc triều lần thứ hai.
2.
Phan Liêu, Đặng Dung và Nguyễn Trãi là ba thanh niên sinh ra lớn lên
thời Trần mạt. Ba người đều là dòng dõi của những đại quan làm việc
vói triều đình nhà Trần. Khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, thân sinh cả
ba đều hợp tác với chế độ mới. Họ là những gương mặt tiêu biểu cho thế
hệ thanh niên của đầu thế kỷ 15 phải chứng kiến sự phá sản của triều
đại nhà Trần với những di sản lịch sử to lớn.
Nguyễn Trãi, Đặng Dung và Phan Liêu, giống như tuổi trẻ chúng ta ngày
hôm nay, đều có tâm sự riêng trước hoàn cảnh bế tắc của dân tộc. Cả
ba đều sinh ra và lớn lên cùng thời kỳ. Nguyễn Trãi và Đặng Dung đi
tìm con đường cứu nước. Nguyễn Trãi đã thành công và Đặng Dung đã phải
tuẩn tiết. Riêng Phan Liêu đã đầu hàng giặc để làm quan.
a)
Phan Liêu là con của quan thái phó Nghệ An Phan Quí Hữu. Nghệ An là
cửa ngõ vào Hoá Châu. Lúc ấy lực lượng của Giản Định Đế và Trùng Quang
Đế đang nắm giữ vùng Nghệ An Thanh Hoá. Năm 1413, Trương Phụ đem quân
đánh Nghệ An. Phan Quí Hữu ra hàng. Phan Liêu được Trương Phụ cho làm
tri phủ Nghệ An. Quân của Trùng Quang Đế chạy về Hoá châu. Phan Liêu
đem thông tin quân số của Trùng Quang Đế cho Trưong Phụ biết. Nhờ đó,
Trương Phụ đã tiêu diệt được lực lượng Nghĩa Quân. Trùng Quang Đế và
Đặng Dung đều bị bắt trong trận Hoá Châu nầy và sau đó tự vẫn trên đưòng
giải về Kim Lăng. Do sự phản bội của Phan Liêu, chế độ nhà Trần hoàn
toàn cáo chung. Đến năm 1419, Phan Liêu bất đồng quan điểm với Mã Kỳ,
một tướng lãnh quân Minh, nên đem quân giết quan quân nhà Minh ở Thanh
hoá và chạy qua Ai lao.
Phan Liêu không đầu hàng ở giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh xâm lược.
Ông đầu hàng vào năm 1413, tức là 6 năm sau khi Trương Phụ và Mộc Thạnh
đem quân tràn vào Đại Việt. Như vậy trong thời gian đó, Phan Quì Hữu
đang làm quan cho nhà Hậu Trần, đang làm công tác phù Trần.
Ở giai đoạn nầy động lực cho sự hợp tác với quân Minh không còn là phù
Trần nữa. Sau 6 năm chiếm đóng Đại Việt quân Minh không hề quan tâm
đến việc đưa con cháu nhà Trần trở lại ngai vàng. Chiến dịch Diệt Hồ
Phù Trần đã hiển nhiên trở thành cuộc chiến tranh xâm lược. Ở giai đoạn
nầy, hàng quân Minh là sự chọn lựa giữa cái chết vinh vì đất nước và
cái sống nhục theo quân xâm lược, là chọn lựa giữa đi với Trùng Quang
vào núi kháng chiến và theo giặc Minh làm quan. Phan Liêu chọn con đường
thứ hai.
Cuộc nổi loạn của Phan Liêu năm 1419 chắc chắn đã gây giao động mạnh
trong hàng ngũ quân Minh. Nhưng vì cuộc nổi loạn không có tầm vóc lớn
nên không gây ảnh hưởng rộng rãi và bị tiêu diệt ngay. Sau đó ông đã
trốn sang Ai Lao và mất hút vào trong lịch sử.
Ở Phan Liêu chúng ta thấy được tính chất bất định của một con người
đã mất định hưóng dân tộc. Ông hành xử bởi cá nhân và vì cá nhân. Ngay
cả khi ông nổi loạn chống quân Minh, cái động lực chính là mâu thuẩn
quyền lợi và cá tính giữa ông và Mã Kỳ. Do đó, ông không thấy được lực
lượng Lam Sơn đang lớn mạnh, đang xoay đổi vận hội của dân tộc.
b)
Đặng Dung là con của quốc công Đặng Tất một đại quan nhà Trần, Cũng
như tất cả những quan lại dứoi triều mạt Trần, Đặng Tất đã hợp tác với
chính quyền Hồ Quí Ly. Khi Trương Phụ đem quân xâm chiếm nước ta, Đặng
Tất đang làm Đại Tri Châu ở hạt Hoá Châu. Lúc đầu ông theo giặc Minh
được Trương Phụ cho tiếp tục giữ chức vụ cũ. Đến khi Giản Định Đế khởi
nghĩa thì ông đem thành Nghệ an dâng cho Giản Định, và dâng con gái
vào hậu cung. Đặc biệt Hoá Châu là vùng địa đầu ở phía nam của Đại Việt.
Địa thế hiểm trở. Năm 1413 Trương Phụ đem quân đánh Hoá Châu. Mộc Thạnh
trình với Trương Phụ như sau: “Hoá Châu núi cao bể rộng khó lấy lắm.”
(TTK tr. 204) Với truyền thống gia đình và địa phương anh linh như thế,
Đặng Dung đã được hun đúc trở thành một võ tướng của nghĩa quân nhà
hậu Trần. Trong lúc gian nan chỉ huy cuộc kháng chiến, ông đã để lại
cho chúng ta bài thơ Cảm Hoài được sử gia Trần Trọng
Kim dịch như sau:
Việc
đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay,
Vai khiên trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài vầng nguyẹt đã bao rày.
Bài
thơ nầy được danh sĩ Lý Tử Tấn, một học giả thời Lê, tác giả Chuyết
Am Văn Tập, nhận xét:”không phải người hào kiệt, không thể làm được.”
Qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được Đặng Dung không những là một
võ quan, một người yêu nước, mà còn là một người nghệ sĩ tài hoa. Cho
đến ngày hôm nay, không ai trong chúng ta đọc hai câu cuối của bài Cảm
Hoài mà không xúc động trước lòng yêu nước tuyệt vời của ông.
Thù
trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài vầng nguyệt đã bao rày.
Sau
khi cha ông bị Giản Định Đế Trần Ngỗi giết chết, ông thấy được viễn
ảnh đen tối của cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Trần Ngỗi. Con
người Trần Ngổi quá thiển cận, cục bộ và thiếu tự tin. Ông ta không
thể tiếp tục lãnh đạo công cuộc chống xâm lăng. Đặng Dung thấy nhu cầu
của thế hệ mới đứng ra nhận trọng trách của lịch sử. Từ suy nghĩ đó,
ông đã cùng người bạn đồng cảnh ngộ là Nguyễn Cảnh Dị đón Trần Quý Khoách,
là người cùng trang lứa với ông, để lập làm vua vào năm 1409. Trần Quí
Khoách là con Mẫn vương Trần Ngạc. Mẫn vương là con vua Trần Nghệ Tông
và là anh của Giản Định Đế. Trùng quang Đế gọi Giản Định Đế bằng chú.
Để tạo sự đoàn kết trong công cuộc kháng chiến Đặng Dung cùng Trần Quý
Khoách và những ngưòi bạn đồng chí hướng đã tái phối trí lại lực lượng
kháng chiến. Trong tổ chức mới, quyền hành của thế hệ lớn tuổi bị giảm
thiểu và những ngừoi trẻ đứng ra nắm binh quyền. Giản Định Đế đưọc bố
trí làm thái thựơng hoàng, một vị trí uy tín nhưng không có thực quyền.
Đặng Dung cố gằng tạo sinh khí mới cho công cuộc kháng chiến bằng cách
tạo điều kiện cho thế hệ trẻ đứng ra nắm chủ động việc lãnh đạo cuộc
kháng chiến. Nhưng sinh lực nhà Trần đã hết. Sau một vài chiến thằng
nhỏ, quân kháng chiến đã phạm một số sơ suất chiến lược làm mất cơ hội
bắt sống Trương Phụ. Từ đó, lực lượng kháng chiến yếu dần. Đồng thời
quân Minh gia tăng hành quân và Giản Định Đế bị bắt đưa về Kim lăng.
Sau trận chiến ở Hoá Châu, năm 1413 Đặng Dung và Trùng Quang Đế cũng
bi bắt. Đến đây nhà Trần hoàn toàn cáo chung.
Trên đường bị giải về Kim Lăng vua tôi đã trầm mình tự vận. So với việc
Giản Định Đế chiụ nhục về Kim Lăng, hành động đi tìm cái chết của Trùng
Quang, Đặng Dung cũng như các tướng Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy cho chúng
ta thấy được dũng khí của một thế hệ trẻ yêu nước, rất lãng mạn, rất
hào hùng, nhưng vô cùng bất hạnh.
Cuộc đời của Đặng Dung là tượng trưng cho lòng yêu nước trung trinh,
để nợ nước lên trên thù nhà. Ông mang tâm sư “Vai mang trái đất
mong phò chúa” đến hơi thở cuối cùng. Tận trung với vua, với nhà
Trần cho đến tận cùng cái vận hạn của triều đại ấy.
Khi bàn đến cái thất bại của nhà Hậu Trần, Sử thần Ngô Sĩ Liên viết:
Trận
đánh ở Sái Già, Đặng Dung, Nguyễn Súy, đem tàn quân trơ trọi chống lại
bọn giặc mạnh, quân tướng đều tinh nhuệ. Dung nửa đêm đánh úp doanh
trại giặc làm cho tướng giặc sợ hãi chạy trốn, đốt hết thuyền bè, khí
giới của chúng, không phải người thực sự có tài làm tướng, thì có làm
được như thế hay không?.
Thế nhưng cuối cùng vẫn bại vong, đó là do trời. Tuy thất bại, cũng
vẫn vinh quang, vì sao vậy?. Bọn Dung vì nghĩa không thể cùng sống với
giặc, phải tiêu diệt bọn chúng mới nghe, cho nên mới hết lòng, hết sức
giúp đỡ Trùng Quang để mưu khôi phục. Trong khoảng 5 năm, kiên trì chiến
đấu với giặc, dẫu có bất lợi, nhưng ý chí không núng, khí thế càng hăng,
đến kiệt sức mơí chịu thôi. Lòng trung vì nước của người bề tôi, dẫu
trăm đời sau vẫn còn tưởng thấy được!
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư viết về nhận định của Lê Lợi về phong trào kháng
chiến của Giản Định Đế và Trùng Quang Đế như sau:
Trước
đó, bọn Đặng Tất, Nguyễn Súy ở Châu Hóa cùng lập con cháu nhà Trần là
Trần Ngỗi, Trần Khoáng làm vua. Nhưng vua [tức Lê Lợi] thấy họ yếu hèn,
lại say đắm tửu sắc, biết là chẳng làm nên chuyện, mới ẩn náu chốn núi
rừng, dụng tâm nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu
tập dân chúng lưu ly, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn. (ĐVSKTT
tr. 325)
c)
Nguyễn Trãi là con của Nguyễn Ứng Long tự là Phi Khanh và bà Trần Thị
Thái, là con thứ ba của Đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Ông Nguyễn Phi Khanh
là một học sinh nhà nghèo học giỏi. Sử sách kể rằng quan tư đồ Trần
Nguyên Đán thấy Ứng Long học giỏi nên yêu mến mời làm thầy dạy cô con
gái. Hai thầy trò yêu nhau bà Thái có thai ngoài vòng lễ giáo. Ứng Long
bỏ trốn. Quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán cho người đi kiếm về để gã cô con
gái đang mang thai cho Nguyễn Ứng Long. Lúc đó ông mới 19 tuổi. Khi
lấy bà Thái xong, Nguyễn Ứng Long học tiếp thi Thái học sinh và đâu
bảng nhãn. Tức là đậu thứ nhì trong kỳ thi tiến sĩ. Bà Thái là người
đàn bà đã được đọc sách thánh hiền từ thuở nhỏ. Cha bà là Trần Nguyên
Đán là một thần đồng, đậu tiến sĩ năm 14 tuổi và là dòng dõi Thượng
tướng Trần Quang Khải, con thứ của vua Trần Thái Tông. (DVSKTT 277)
Mang trong mình truyền thống thông minh xuất chúng Nguyễn Trãi đậu tiến
sĩ năm 21 tuổi dưói triều Hồ Hán Thưong. Ông làm đến chức ngự sử đài
chính chưởng cho đến khi nhà Minh xâm lược nước ta.
Năm 1407, Nguyễn Phi Khanh và hai em của ông bị bắt sang Trung Hoa.
Khi chia tay ở Ải Nam Quan, Nguyễn Phi Khanh dặn dò Nguyễn Trãi phải
về lại Thăng Long để lo việc báo thù cho cha. Lúc đó Nguyễn Trãi 27
tuổi.
Trở về Thăng Long, Nguyễn Trãi nhìn đất nước tan hoang, lòng người ly
tán không khỏi cảm thấy đau thương. Trương Phụ, Mộc Thạnh và 800 ngàn
quân Minh đã vào Thăng Long và đóng binh khắp miền đất nước. Một số
lớn nhân sự của triều đình Hồ Quý Ly bị bắt về Kim Lăng. Người hàng
giặc. Kẻ đi kháng chiến. Về phương diên gia tộc, Trần Thúc Dao, con
trai của Trân Nguyên Đán, và là cậu ruột của Nguyễn Trãi, đã hàng quân
Minh và được Trương Phụ cho giữ đất Diễn Châu. Sau nầy Thúc Dao bị Giản
Định Đế giết chết. (DVSKTT tr. 313)
Từ khi Nguyễn Trãi chia tay với cha ở Ải Nam Quan năm 1407 đến khi ông
tìm đến Lê Lợi năm 1416 là 10 năm. Đó là giai đoạn trong cuộc đời của
Nguyễn Trãi không được lịch sử nói gì đến nhiều. Đó là 10 năm mà người
sau nghĩ rằng Nguyễn Trãi đã nằm yên, không vọng động.
Có lẽ trong giai đoạn đó ông cũng biết công việc khởi nghĩa của Đặng
Dung. Có lẽ ông đã nghe bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung lưu truyền trong
đám sĩ phu yêu nước. Chắc Nguyễn Trãi cũng biết câu chuyện về khí tiết
của Nguyễn Biểu khi ông mắng Trương Phụ và bị nhục hình đến chết. Nếu
ông là ngưòi yêu nước tại sao ông không chia xẻ quan điểm chính trị
với Đặng Dung để phù Trần diệt Minh? Tại sao ông, là con cháu của nhà
Trần, không gia nhập phong trào kháng chiến của Giản định đế và Trùng
Quang Đế để khôi phục nhà Trần, để giành lại độc lập cho tổ quốc?
Liệu thái độ im lặng của ông có bị người đương thời “chụp mũ” là thiếu
tinh thần ... “phù Trần” chăng?
Người đương thời nghĩ gì khi Nguyễn Trãi cùng với người anh em con cô
con cậu là Trần Nguyên Hãn tìm đến người nông dân Lê Lợi ở Lam Sơn năm
1416?
Lê Lợi sinh năm 1385 nhỏ hơn Nguyễn Trãi 5 tuổi. Ông gặp Lê Lợi năm
ông 36 tuổi và Lê Lợi 31 tuổi. Phải chăng ông chọn Lê Lợi vì Lê Lợi
là hình ảnh của một thế hệ mới. Nhưng nếu chọn thế hệ mới tại sao ông
không chọn Trùng Quang Đế Trần Quí Khoách làm minh chủ để cùng với Đặng
Dung Phù Trần Diệt Minh?
Về quan điểm thế hệ, Nguyễn Trãi rất gần với Đặng Dung. Cả hai đều quan
niệm rằng cuộc chiến mới phải do thế hệ trẻ lãnh đạo. Thế hệ cũ, đại
biểu là Giản Định Đế Trần Ngổi, không có đủ năng lực để lãnh đạo cuộc
chiến chống nhà Minh. Giản Định Đế vừa lên ngôi trong hoàn cảnh kháng
chiến khó khăn đã lo tuyển thê thiếp vào hậu cung. Chiến thắng Bô Cô
chưa ráo máu giặc, Giản Định đã nghe lời hoạn quan trong triều đình
giết hai danh tướng có công đầu là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Những
sự kiện nầy cho thấy Trần Ngỗi là con người, như Lê Lợi nhận định, ham
mê dục vọng. Tệ hơn nữa, ông ta là người lãnh đạo nhưng thiển cận, nghi
kỵ và thiếu tự tin. Và do đó, Giản Định Đế không có khả năng tập hợp
và nuôi giữ nhân tài để lãnh đạo công cuộc kháng chiến.
Đặng Dung tìm đến ngừơi hậu duệ trẻ tuổi của nhà Trần là Trần Quí Khoách
để tôn lên làm vua. Còn Nguyễn Trãi tìm đến Lê Lợi, một hào trưởng vô
danh ở Thanh Hoá, để tôn lên làm minh chủ.
Nhưng sự việc quan trọng hơn là Nguyễn Trãi tìm đến Lê Lợi để dâng Bình
Ngô Sách. 10 năm từ khi chia tay với cha ở Ải Nam Quan, Nguyễn Trãi
đã dành thời giờ suy nghĩ về một chiến lược mới để cứu nước. Bình Ngô
Sách là kết tinh của những suy nghĩ của Nguyễn Trãi.
Ngày nay Bình Ngô Sách đã thất lạc. Nhưng qua tác phẩm Bình Ngô Đại
Cáo chúng ta có thể thấy ngay đuợc sách lược của cuộc kháng chiên của
Lê Lợì.
Sách lược chính yếu của Bình Ngô Sách là Mưu Phạt và Tâm Công. Đánh
bằng mưu và đánh vào lòng người. Đó là ý nghĩa của cuộc chiến tranh
nhân nghĩa. Ông xây dựng quan điểm đúng đắn về chiến tranh chính nghĩa
để đương đầu lại với cuộc chiến tranh giả nhân nghĩa dưới khẩu hiệu
diệt Hồ phù Trần bịp bợm của Minh Thành Tổ. Ông dùng chiến tranh tâm
lý chính đạo để đối phó chiến tranh tâm lý tà đạo của quân xâm lược.
Ngay ở đề tựa Bình Ngô Sách, ông đã gọi Trung Hoa là giặc Ngô. Đây là
cách dùng chữ để nhấn mạnh rằng rằng thái độ ngạo mạn của Trung Hoa
gọi nguời Việt là Di, là mọi rợ, (như khi Minh đế phong Chu Năng làm
“Chinh Di” Đại Tưóng Quân), là một điều xúc phạm đến truyền thống văn
hoá lâu đời của Đại Việt. Ông muốn nhắc lại cho mọi ngưòi biết rằng
chính Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương khi còn là giặc cỏ cũng tự phong
là Ngô Vương. Xuất xứ của Chu Nguyên Chương là từ Ngô Việt, một bộ phận
của Bách Việt đã bị đồng hoá vào Trung Hoa. Ông gọi cuộc chiến nầy là
cuộc chiến “bình Ngô” để trả lại Minh Thành Tổ chữ “chinh Di” mà ông
dùng để gọi Đại Việt.
“Bình Ngô” cũng xác định cuộc chiến nầy là một cuộc chiến văn hoá, để
đối đầu với chiến dịch “chinh Di” của Minh Thành Tổ nhằm đồng hoá Đại
Việt. Chính vì thế trong phần mở đầu của Bình Ngô Đại Cáo Nguyễn Trãi
khẳng định giá trị truyền thống lâu đời của văn hoá phương nam: “Như
nưóc Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu, Sơn hà cương vực đã
chia, Phong tục bắc nam cũng khác”.
Đồng thời, ông bổ xung ý niệm nhân nghĩa mông lung của Nho Giáo bằng
cách đưa ý niệm nầy vào thực tế chính trị. Theo ông, đối tượng của chính
trị là nhân dân, không phải là huyết thống hay dòng họ. Vai trò của
nhà cầm quyền phải làm sao cho nhân dân sống an cư lạc nghiệp. Do đó,
nhân nghĩa không nằm ở khẩu hiệu, ở tuyên truyền. Nó nằm ở chổ khi thực
hiện cái mà ngưòi ta gọi là điều nhân nghĩa đó, có làm cho nhân dân
đưọc hạnh phúc ấm no hay không. Ông đưa ra tiêu chuẩn bắt buộc những
người lãnh đạo ưa nói điều nhân nghĩa phải chứng minh đưọc khả năng
đem lại cơm no áo ấm cho nguời dân cách cụ thể. Cái cụ thể đó ngày nay
đưọc gọi là lợi tức bình quân đâu ngưòi và những chỉ số phát triển kinh
tế quốc gia.
Và nữa, nếu phải phát động một cuộc chiến tranh nhân nghĩa thì mục đích
của nó là để triệt tiêu bạo quyền, chứ không phải để xây dựng một chế
độ cường bạo hơn, độc ác hơn. Khi một chế độ mới độc ác hơn đưọc thiết
lập để thay thế chế độ cũ, lập tức, mọi khẩu hiệu nhân nghĩa trong cuộc
chiến đều mất giá trị. Và cuộc chiến đó trở nên mất chính nghĩa.
Do đó, nhân danh “phù Trần” hay bất cứ một lý tuởng vĩ đại nào để thay
đổi văn hoá dân tộc, để ngăn sông cấm chợ, để bóc bột nhân dân, làm
đời sống nhân dân bất ổn định, làm cho nhân dân cùng khổ là một điều
bất nghĩa, là một tội ác. Ông gói ghém quan điểm nầy trong câu mở đầu
của Bình Ngô Đại Cáo:
Việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt chỉ vì khử bạo.
Suốt
hai trăm năm trước đó, Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư và Binh Thư Yếu Lược
của Trần Hưng Đạo được coi như sách lược quốc phòng của Đại Việt và
của triều đại nhà Trần. Hai bộ sách nầy biểu tượng của đỉnh cao về tư
duy quốc phòng giúp nhân dân Đại Việt chiến thắng giặc Nguyên Mông ở
thế kỷ 13. Nhưng đến đầu thế kỷ thứ 15, sách lược quốc phòng của Trần
Hưng Đạo không giúp nhà Trần gìn giữ ngai vàng và bảo vệ đất nước.
Có lẽ Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư và Binh thư Yếu Lược của Trần Hưng
Đạo không còn đủ “linh nghiệm” để cứu nước và cứu nhà Trần. Hậu duệ
của Trần Quang Khải, Trần Hưng Đạo không còn hùng khí của cha ông để
giữ Thăng Long trước những đợt tấn công của Chế bồng Nga.
Không phải đến đời Hồ Quí Ly nhà Trần mới mất ngôi. Trước Hồ Quí Ly,
nhà Trần đã một lần mất ngôi khi Trần Dụ Tông nhường ngôi lại cho Dương
Nhật Lễ (1369-1370). Nếu Trần Nghệ Tông không diệt được Dương Nhật Lễ
để giành lại ngôi thì nhà Trần đã cáo chung từ năm 1369. Nhưng Trần
Nghệ Tông là một vị vua nhu nhược, yếu hèn. Ông lên ngôi để kéo dài
giai đoạn hấp hối của nhà Trần. Chính Trần Nghệ Tông đã mở đường cho
Hồ Quí Lý cướp ngôi nhà Trần sau nầy.
Trong mười năm yên lặng, Nguyễn Trãi đã nghiền ngẫm sách lược của tổ
phụ và suy nghĩ đến vận nước và vận hạn của nhà Trần. Khi viết Bình
Ngô Sách, ông đã quyết định bước ra khỏi bóng che vĩ đại của Trần Hưng
Đạo. Bình Ngô Sách, do đó, là một đỉnh cao mới trong lịch sử quốc phòng
của dân tộc để tiếp nối đỉnh cao của Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư và
Binh Thư Yếu Lược.
Nhưng tại sao Nguyễn Trãi không dâng Bình Ngô Sách cho Trùng Quang Đế
mà phải tìm đến con người vô danh Lê Lợi ở núi Lam Sơn?
Có lẽ Nguyễn Trãi thấy được nhà Trần đã suy vong. Nói theo ngôn ngữ
của dân gian thì vận số của nhà Trần đã hết. Phù Trần không còn là lý
tưởng và là khẩu hiệu có thể giải quyết vấn đề đất nước. Phù Trần có
thể là cứu nước. Nhưng cứu nước không hẳn đồng nghĩa với phù Trần.
Quan điểm về triều đại và dân tộc của Nguyễn Trãi đã bác bỏ quan điểm
phù Trần của Đặng Dung. Trong khi Đặng Dung trung trinh với nhà Trần
dù cho cha ông bị Giản Định Đế giết chết. Trưóc cái thảm hoạ xảy ra
cho gia đình, ông không oán hận triều đình . Ngược lại, ông vẫn quyết
tâm theo đuổi con đường cần vương phục quốc mà ông đã chọn lựa. Đặng
Dung tìm cho được Trùng Quang Đế để phò lên ngôi, để tiếp tục công việc
cứu nước. Lòng yêu nước và trung quân của Đặng Dung sáng chói. Nhưng
Đặng Dung gắn liền dân tộc với triều đại, với những con ngưòi biểu tượng
của quyền lực đã một thời rất vĩ đại, rất vinh quang, nhưng đã phá sản.
Đặng Dung không sai lầm. Nhưng Đặng Dung chưa tìm được, chưa thấy được
cái mới, cái xuất lộ cho dân tộc.
Nguyễn Trãi khác hẳn. Mặc dù Nguyễn Trãi là hậu duệ của nhà Trần, nhưng
với ông, khẩu hiệu “yêu nước là yêu nhà Trần”
không còn đúng nữa.
Quan điểm nầy cũng phù hợp với quan điểm của Nguyễn Phi Khanh. Là rễ
của quan đại tư đồ Trần Nguyên Đán, nhưng Phi Khanh bị phạt không được
làm quan vì tội “trèo cao”, vì ông là con thường dân nhà nghèo mà dám
lấy con gái quan đại tư đồ. Do đó, khi Hồ Quí Ly cướp ngôi, Nguyễn Phi
Khanh nhanh chóng ra phục vụ nhà Hồ. Ông chia tay với triều đình bên
vợ không luyến tiếc. Chính Nguyễn Trãi cũng có thiện cảm với nhà Hồ.
Trong Bình Ngô Đại Cáo ông viết “vừa rôi nhà Hồ chính trị phiền
hà”. Dùng chữ “chính trị phiền hà” để nói đến việc Hồ
Quí Ly giết vua soán ngôi, Nguyễn Trãi đã coi việc việc nhà Trần mất
ngôi không phải là chuyện to lớn.
Nguyễn Trãi đã giải quyết được một tâm lý cực kỳ quan trọng của một
thanh niên trước cái bế tắc của đất nước. Đó là phải cắt dứt cho được
cái não trạng trung quân, cần vương trong công cuộc cứu nước tồn chủng.
Ông đã bước ra khỏi tâm thức chính trị trung quân của thời kỳ phong
kiến để nhìn về phía tương lai của dân tộc. Một triều đại đã chết không
thể làm cho nó sống dậy, và càng không thể coi nó là cứu cánh của cuộc
kháng chiến. Nguyễn Trãi coi sự sống còn của dân tộc quan trọng hơn
là tồn vong của một triều đại. Ông tách dân tộc ra khỏi chế độ. Ông
phủ nhận quan niệm “yêu nước là yêu nhà Trần”.
Chính điều nầy đã đánh dấu sự trưởng thành về ý thức dân tộc.
Từ những suy nghĩ trên, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn, lả hai hậu duệ
chính thống của nhà Trần, đi tìm con đường mới. Đó là đường vào Lam
Sơn. Vì chỉ có Lam Sơn mới có thể trở thành trung tâm vận động lịch
sử. Và chỉ có Lam Sơn mới làm cho đất nước hồi sinh.
3.
Phan Liêu, Đặng Dung và Nguyễn Trãi trở thành hình ảnh biểu tượng của
ba thành phần thanh niên ở đầu thế kỷ thứ 15.
Phan Liêu là đại biểu cho thành phần chọn cho mình chổ đứng trong hàng
ngũ quân xâm lăng.
Thành phần nầy có những xu hướng khác nhau. Có những người nhẹ dạ tin
tưởng vào khẩu hiểu Diệt Hồ Phù Trần của giặc nên ra hợp tác với giặc
Minh. Xu hướng nầy đại biểu cho lòng trung quân, cần vương thiển cận,
cục bộ. Họ muốn trả thù cho chúa nhưng quên cái thảm hoạ mất nước. Họ
sẳn sàng rước về cho dân tộc một thảm hoạ nguy hiểm hơn cái thảm hoạ
thay đổi chính trị, thay đổi triều chính.
Xu hướng khác là những người thấy cái tuyệt vọng trong việc giành độc
lập nên đành đứng vào hàng ngũ giặc để tìm đường sống cho cá nhân và
gia đình.
Tất cả những xu hướng nầy đều đứng về phía giặc làm công cụ và tay sai.
Họ đã góp tay với giặc tiêu diệt sức sống văn hoá dân tộc và mọi sức
đề kháng chống xâm lăng để bảo toàn lãnh thổ.
Những người nầy có những lúc cũng phản tỉnh, nổi loạn. Những ngưòi phản
tỉnh quyết liệt như Đặng Tất đã hy sinh tất cả để theo kháng chiến.
Những ngưòi phản tỉnh nửa vời, như Phan Liêu, cũng nổi loạn rồi mất
định hướng. Và dĩ nhiên còn lại những ngưòi như Lương Nhữ Hốt theo giặc
đến ngày giặc cuốn gói về nước.
Nhưng lịch sử cũng còn những Đặng Dung và Nguyễn Trãi.
Ngày nay chúng ta không thể không rung động trước bài thơ Cảm Hoài của
Đặng Dung. Hình ảnh của một người tráng sĩ mài gươm dưới ánh trăng mong
phục thù cho chúa là hình đẹp nhất trong lịch sử giành độc lập của dân
tộc. Đó là cái đẹp của lòng yêu nước chất chứa nỗi u hoài, tuyệt vọng.
Hình ảnh đó của Đặng Dung đã khơi dậy phong trào yêu nước lãng mạn,
kích động được lòng yêu nước nồng nàn của hàng bao thế hệ cho đến ngày
nay. Chính những hy sinh đó đã kết thành hồn sử linh thiêng của dân
tộc và làm cho ý thức dân tộc lớn lao lên.
Nguyễn Trãi bước một bước xa hơn. Ông gắn bó cái lãng mạn của lòng yêu
nước với tinh thần yêu nước thực dụng.
Yêu nước mù quáng sẽ dễ dàng trở thành tay sai cho những chiêu bài nhân
nghĩa giả dối bịp bợm của ngoại bang. Lòng yêu nước loại đó có tác hại
biến người yêu nước thành tay sai mà họ tưởng mình làm cách mạng dân
tộc. Họ quay mặt lại với tổ quốc, với nhân dân, tiêu diệt văn hoá dân
tộc mà lương tâm không bị cắn rức.
Yêu nước lãng mạn mà thiếu tinh thần thực tế như Đặng Dung cũng không
đủ liều lượng để giải quyết vấn đề đất nước.
Nguyễn Trãi quân bình giữa tình cảm yêu nước và lý trí. Ông là người
biết được thời và thế. Trong những bức thư dụ hàng Vương Thông, Nguyễn
Trãi đem chữ thời trong Kinh Dịch để thuyết phục. Ông viết: “tôi từng
xem Kinh Dịch 384 hào, mà cốt yếu là chữ thời.”
Chữ thời cũng chính là xu thế lịch sử. Thuận xu thế lịch sử là thuận
với chữ thời. Phản xu thế lịch sử là nghịch lại với chữ thời.
Khi thấy vận hạn nhà Trần đã chấm dứt, ông can đảm chia tay với quá
khứ, chia tay với triều đại Lý Trần. Ông bước ra khỏi bóng che lớn của
Trần Hưng Đạo để tìm đến Lê Lợi. Ông nối kết những người yêu nước mới,
không nặng nợ với quá khứ, để mở ra vận hội mới cho dân tộc.
Ông quyết liệt phủ nhận và lật mặt nạ chiêu bài giả dối Diệt Hồ Phù
Trần của nhà Minh. Nhưng ông cũng không dứng trên lập trường Diệt Minh
Phù Trần để phò một triều đình đã bị phá sản.
Nguyễn Trãi phóng tầm nhìn vào tương lai để xác định lập trường của
ông. Ông đứng trên lập trưòng của một nước Đại Việt mới, một nước Đại
Việt sắp ra đời và sẽ phải ra đời.
Sách Tang Thương Ngũ Lục kể rằng Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đến
tìm Lê Lợi hai lần. Lần đầu gặp ngày giổ, Nguyễn Trãi thấy Lê Lợi vừa
cắt thịt vừa ăn, ông thất vọng trở về. Lần thứ nhì ông thấy Lê Lợi thức
khuya nghiền ngẫm binh thư ông mới vào ra mắt.
Có lẽ lần đầu Nguyễn Trãi thấy đưọc con người thật rất tầm thường của
Lê Lợi, một hào trưởng đã lột bỏ hết tất cả những hào quang và huyền
thoại. Khi Nguyễn Trãi gặp Lê Lợi lần thứ hai, ông thấy Lê Lợi là con
người của binh thư, của đất nước. Ông thấy được Lê Lợi là con người
có ý chí, biết học hỏi cầu tiến và biết tự rèn luyện bản thân. Ông đem
con mắt của một nhà khoa bảng yêu nước ở Thăng Long để đánh giá một
hào trưởng miền núi trong công tác cứu nước. Ông nhìn được Lê Lợi xuyên
qua cái bề ngoài quê mùa thô lỗ của một nông dân. Ông thấy được những
đức tính và khả năng lãnh đạo trong con người của Lê Lợi. Những yếu
tố nầy làm cho Lê Lợi nổi bật lên gìữa gần 30 phong trào kháng Minh
thời bấy giờ.
Về sau có người trách Nguyễn Trãi không có con mắt nhìn xa để sau nầy
bị hại đến bản thân và gia đình. Nhưng ở đây Nguyễn Trãi đi tìm con
đường và con người cứu nước, chứ không phải đi tìm danh phận cho mình
và dòng họ. Do đó, dù ông có tiên liệu được phận bạc của mình với nhà
Lê, vì công cuộc cứu nước, ông vẫn dấn thân vào Lam Sơn. Đây là cái
vĩ đại của con người Nguyễn Trãi.
Năm 1416, Nguyễn Trãi đã cùng 18 vị anh hùng Lam Sơn cùng nhau kết ước
ăn thề ở Hội Thề Lũng Nhai. Ý niệm hôi thề là một sáng kiến cách mạng
về mô hình tổ chức chính trị. Ý nghĩa của hội thề là sự ràng buộc những
người làm việc nước bằng qui ước đạo đức để giảm thiểu tính chuyên chế,
tham sân si, thủ cựu và đồng thời tăng cường tính lý tưởng, tính khai
phóng và rộng lượng của người lãnh đạo kháng chiến, và người lãnh đạo
đất nước trong tương lai. Nó là xã ước thành văn đầu tiên của Đại Việt
trong thời kỳ phong kiến. Nó nối kết cuộc vận động thời đại với linh
thiêng của dân tộc. Nó thiết lập giá trị đạo đức cho công cuộc cứu nước.
Hội Thề Lũng Nhai, do đó, là một mô hình tập hợp dân tộc tân kỳ.
Biến cố Lũng Nhai, cũng như quan điểm về triều đại của Nguyễn Trãi như
đã nói trên, một lần nữa xác định sự trưởng thành về ý thức dân tộc
của thế hệ mới. Nhiệm vụ cứu quốc tồn chủng không còn là độc quyền của
một dòng họ, của triều đình, của giai cấp, mà là của mọi người, từ kẻ
khoa bảng đến nông dân vô danh.
Nhờ đó, Hội Thề Lũng Nhai đã xác định được giá trị chính thống lịch
sử của phong trào kháng chiến Lam Sơn, tái tạo được đạo đức của tầng
lớp lãnh đạo, xây dựng lại nội lực dân tộc, để hình thành một triều
đại mới và một nước Đại Việt mới.
Từ Hội Thề Lũng Nhai, Lam Sơn đã trở thành căn cứ địa hồi sinh dân tộc.
Xuất phát điểm lịch sử ấy đã đẩy cuộc khởi nghĩa Lê Lợi đến thành công,
đã giúp Lê Lợi giành được độc lập cho tổ quốc, khai sáng triều đại nhà
Lê, hoàn thành được sứ mệnh cứu quốc tồn chủng của tiền nhân, và mở
ra một thời đại phục hưng mới và lớn lao cho Đại Việt.
4.
Đã gần một ngàn năm từ khi Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long để củng cố
nền tự chủ sau một ngàn năm bắc thuộc và mở ra thời đại phục hưng lần
thứ nhất . Từ đó, lịch sử dân tộc ta đã trãi qua bao triều hưng phế.
“Từ
Triệu Đinh Lý Trần xây nền độc lập
Cùng Hán ĐưòngTống Nguyên hùng cứ một phương
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau
nhưng hào kiệt thời nào cũng có”
Ở
mỗi thời kỳ suy vong, trong xã hội cũ đã chứa đựng cái mầm sống của
thời đại mới. Cái mầm sống đó là giấc mơ về một tổ quốc sẽ được hồi
sinh và sự trông ngóng vào một xã hội mới tươi đẹp hơn, nhân bản hơn,
khai phóng hơn. Cái lực của mầm sống đó là công cuộc tập hợp dân tộc,
tập hợp những hào kiệt của thời đại. Cái định hướng để cho cái mới phải
ra đời là tư tưởng chỉ đạo của thời đại. Cuộc vận động cứu nước đòi
hỏi người làm lịch sử phải thấy được mầm sống của dân tộc trong mỗi
một giai đoạn bế tắc.
Công việc khơi dòng lịch sử của thế hệ là thực hiện cho được một cuộc
tập hợp dân tộc mới. Đó là công tác quy tụ, gầy dựng và vun trồng mầm
sống ấy.
Nhưng tập hợp chưa đủ. Công tác lịch sử đòi hỏi ngươì lãnh đạo phải
có một viễn kiến, một tầm nhìn lớn về con đường phục hưng dân tộc và
công tác kiến thiết đất nước. Đó là nền tảng tư duy thời đại. Nền tảng
tư duy giúp người lãnh đạo phát hiện được xu thế lịch sử của dân tộc
và thế giới để làm định hướng cho mầm sống dân tộc được bật ra và phát
triển. Khi mầm sống ấy đến ngày thành thục nó sẽ bộc phát thành giòng
thác thời đại, thành một bùng nổ lịch sử, nó sẽ làm vỡ những bờ đê đóng
cõi, những rào cản thời đại, quét đi những tàn dư, những thối nát của
xã hội cũ, để làm thành cái xuất lộ cho dân tộc. Cái bộc phát ấy là
đòi hỏi của lịch sử để sửa sai những cái sai quấy của thời đại cũ, những
cái bất hợp lý của xã hội cũ, những cái vô lý xuẩn động và cục bộ của
tư duy cũ.
Xuất lộ là khởi điểm của công cuộc xoay đổi thời đại để mở ra thời kỳ
phục hưng để làm cho dân tộc Đại Việt lớn lao lên, để công tác bảo vệ
bờ cõi bền vững hơn, để xây dựng một đất nước hợp lý hơn, hợp với qui
luật phát triển hơn, cho thuận xu thế lịch sử hơn, cho hợp với con người
hơn.
Đó là ý nghĩa của cách mạng và cũng là thông điệp lịch sử của Nguyễn
Trãi gởi đến cho thế hệ chúng ta ngày hôm nay.
Luật
Sư Nguyễn Xuân Phước
Dallas, 15 tháng 10 nam 2004
Sách
tham khảo:
- Trần Gia Phụng, Việt
Sử Đại Cương, tập 1, Nhà Xuất Bản Non Nước, Toronto, Canada, 2003
- Lâm Hán Đạt, Tào Dư Chương, Lịch Sử Trung Quốc 5000 năm, Nhà Xuất
Bản Trẻ, Thành Phố Hồ Chí Minh, 2001
- Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, Nhà Xuất Bản Văn Hoá, Hà Nội, 1997
- Nguyễn Trãi Toàn Tập, Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, Nhà Xuất Bản
Văn Học, 2000
- Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Trãi Vê Tác Giả và Tác Phẩm, Nhà Xuất Bản
Giáo Dục, Hà Nội 2001
- Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ấn Bản Điện Tử
- Nguyễn Trãi, Lam Sơn Thực Lục Ấn Bản Điện Tử
- Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Xuân Thu 1990, tái in ấn bản của
Trung Tâm Học Liệu VNCH năm 1971.
- Gavin Menzies, 1421 The Year China Discovered America, Published
by Harper Collins Publishers, Inc. New York, 2002
- Thích Phước An, Từ Nguyễn Trãi đến Ngô thời Nhậm và Đưòng Lên Núi
Yên Tử Thư Viện Hoa Sen http://www.thuvienhoasen.org/nguyentrai-ngothoinham.htm
- Lý Đông A, Huyết Hoa, ấn bản điện tử do Hận Nam Quan ấn hành, http://chinhkhiviet.com
- Lý Đông A, Chu Tri Lục, ấn bản điện tử do Hận nam Quan ấn hành http://chinhkhiviet.com
- Lý Đông A, Việt Sử Thông Luận, ấn bản điện tử do Hận nam Quan ấn
hành http://chinhkhiviet.com
SaigonUSA
hoan nghênh ý kiến đóng góp của qúy vị độc giả. Xin type vào Comment Box
ở dưới đây:
RETURN
TO FRONT PAGE
|
|
|