Cách
đây không lâu. Anh chủ nhiệm của một tờ báo địa phương đến thăm và nghe
các con tôi nói chúng thích nuôi thú vật kiểng (pet). Lần sau anh trở
lại với một chiếc lồng và hai con chim nhỏ để tặng các cháu. Anh dặn
kỹ: "Chim này chỉ nuôi trong nhà, đem ra ngoài gió chúng sẽ chết."
Tôi thật không tin. Chim là phải bay nhảy chứ làm gì ngay cả gió cũng
sợ. Tôi đến một tiệm bán chim hỏi lại. Bà chủ tiệm cũng đồng ý với anh
chủ nhiệm: "Đây là loại chim được sản xuất theo lối công nghiệp
chứ không phải chim sinh nở tự nhiên. Nếu đem ra ngoài trời, chúng sẽ
chết vì không thích hợp với môi trường." Tôi đành giữ kỹ chim trong
nhà. Vài hôm sau, một người bạn cùng quê của tôi tới thăm. Anh nghiêm
chỉnh khiển trách: "Mày là Phật tử mà bỏ tù sinh vật. Người ta
chẳng ví cảnh tù đày như cá chậu chim lồng đó sao. Phải thả chúng bay
đi." Tôi thật khó xử, vừa cảm thấy việc "bỏ tù sinh vật"
là không nên làm nhưng thả bay đi chúng sẽ chết. Tôi phân trần với anh:
"Đây là chim công nghiệp, đem ra ngoài chúng sẽ chết, và thả bay
đi chúng càng chết nhanh hơn." Anh bạn Quảng Nam đáp: "Nếu
chúng chết thì chúng sẽ trọn nghiệp vì biết đâu kiếp sau chúng sẽ là
những con chim tự do."
Tôi
chưa hẳn đồng ý với cách cãi của anh ta nhưng phải công nhận việc tôn
trọng tự do của mọi sinh vật là đúng, nên viết thư về Việt Nam hỏi ý
một vị Đại Đức ở Hội An. Thầy trả lời theo lối "vạn sự do tâm":
"Chim công nghiệp vẫn là chim. Nếu môi trường xấu làm cho chúng
xấu đi thì môi trường tốt sẽ làm cho chúng tốt trở lại. Hãy tập cho
chúng quen dần, từng bước và khi chúng hoàn toàn quen thuộc với môi
trường bên ngoài thì phóng sinh chúng đi." Tôi cho đó là giải pháp
hợp lý. Rất tiếc tôi lại quá bận để tập cho chim quen với thiên nhiên,
bèn tặng chúng cho người em và dặn chú ấy tập cho chúng quen dần với
đời sống bên ngoài, định bụng khi chúng hoàn toàn làm quen sẽ bàn với
chú em làm lễ phóng sinh.
Tháng
sau tôi trở lại nhà người em nhưng không thấy chim. Chưa kịp hỏi, chú
em trả lời: "Chẳng giấu gì anh, ngày nào em cũng đem chim ra vườn
tập. Chúng tiến bộ lắm. Chúng rất thích cảnh thiên nhiên. Vừa thấy cảnh
cây lá sum sê là chúng kêu ríu rít lên ngay. Tuần trước, trong lúc em
để chúng trên sân sau, chạy vào nhà trả lời điện thoại, khi trở ra thì
chỉ còn mấy cái lông rơi rớt bên cạnh chiếc lồng vỡ nát và con mèo của
hàng xóm đang nhảy sang bên kia hàng rào." Tôi an ủi chú em theo
lý luận của anh bạn Quảng Nam: "Hai con chim đó đã trọn nghiệp
trong kiếp này, hy vọng đời sống sau, chúng sẽ làm chim của núi rừng
tự do thay vì làm kiếp chim công nghiệp."
Mỗi
khi nhớ đến câu chuyện hai con chim, tôi lại ngậm ngùi nghĩ đến số phận
của các em bé Bắc Hàn. Cuộc đời của các em không khác gì những con chim
công nghiệp kia. Ngay khi các em ra đời, các cơ chế chính trị và xã
hội đã được chuẩn bị sẵn để các em sống, suy nghĩ và hành động một cách
thích nghi.
Tương
tự như môi trường dành cho loại chim công nghiệp, cơ chế chính trị Bắc
Hàn được xây dựng và tồn tại bằng niềm tin tuyệt đối nơi lãnh tụ của
họ. Trong cơ chế đó sự nhầm lẫn, hoài nghi dù hợp lý đều không được
cho phép tồn tại. Trong buổi phỏng vấn dành cho tuần báo Time, người
cận vệ của Kim Chính Nhật đào thoát nhắc lại câu chuyện của một người
lái xe vô tình chạy lạc vào khu vực dinh thự của Kim Chính Nhật. Sau
khi thẩm vấn anh tài xế, đám cận vệ của Kim Chính Nhật đều đồng ý rằng
anh ta thật sự đi lạc. Tuy nhiên cách giải quyết họ chọn trong trường
hợp đó là bắn chết anh ta ngay tại chỗ. Gia đình anh tài xế được thông
báo rằng anh đã "đền nợ nước" và thưởng công cho gia đình
một cái tủ lạnh. Nhiều câu chuyện, đối với người sống bên ngoài bán
đảo Bắc Hàn, có thể là chuyện hoang đường đến độ buồn cười, nhưng với
người dân Bắc Hàn lại là chân lý, đúng như một nhà thơ Việt Nam có lần
đã định nghĩa: "Chân lý là đường Đảng đã vạch ra và sự thật là
gì Đảng đã dạy ta." Giờ sinh của Kim Chính Nhật, con trai Kim Nhật
Thành và là đương kim lãnh tụ Bắc Hàn, được mô tả trong giáo trình tiểu
học: "Lãnh Tụ Kính Yêu sinh ra trong một căn cứ quân sự bí mật
bên rặng núi thánh Paektu-san (Bạch Đầu Sơn), lúc Người ra đời một có
hai cầu vồng rực rỡ và một ngôi sao sáng hiện ra trên nền trời"
(Người dân Bắc Hàn gọi Kim cha là Lãnh Tụ Vĩ Đại hay Lãnh Tụ Vĩnh Cửu
và Kim con là Lãnh Tụ Kính Yêu). Thật ra làm gì có căn cứ quân sự nào,
chẳng trên núi thánh nào và lại càng không có chuyện thần thoại như
hai vòng cầu vồng ngũ sắc hiện ra trong giờ Kim Chính Nhật giáng trần.
Theo sử liệu của Sô-Viết cũ, anh chàng Kim Chính Nhật sinh ra trong
một đồn lính nhỏ hẻo lánh ở Siberia vì cha anh ta làm lính cho Stalin
sau khi trốn khỏi Mãn Châu. Một mẩu chuyện khác về Kim Chính Nhật: "Mặc
dù trước kia chưa bao giờ chơi gôn (golf), khi cầm cây gôn lần đầu Lãnh
Tụ Kính Yêu đã đánh trúng ngay 5 lỗ một lần." Và nữa, "Một
lần nọ, Lãnh Tụ Kính Yêu đến kiểm tra súng của một đơn vi quân đội và
trước mặt binh sĩ Người đã rút súng bắn trúng ngay mắt trái của mười
con bò rừng." Kim Chính Nhật không phải là người thường, trong
ý thức của người dân Bắc Hàn, anh chàng là hiện thân của một thiên thần.
Chàng ta tuy chưa bao giờ đi lính một ngày nhưng được gọi trong sách
là "Tướng Trời". Tại Bắc Hàn, ngay cả chiếc khăn để lau tấm
ảnh của hai cha con họ Kim cũng không được phép dùng để lau các đồ vật
khác trong nhà. Giống như những con chim công nghiệp, các em bé Bắc
Hàn cũng líu lo mỗi sáng, nhưng nếu ai lắng tai nghe, bài hát các em
hát trong giờ vào lớp luôn bắt đầu bằng câu: "Hoa nở nhờ có không
khí và các em cười nhờ ơn của Kim Lãnh Tụ Vĩ Đại."
Học
sinh Bắc Hàn được dạy phải "yêu tổ quốc và yêu đồng bào" nhưng
tổ quốc của em được mô tả trong sách vở không phải là một quốc gia nghèo
đói, cô lập với thế giới bên ngoài mà một thiên đường trên trái đất
dưới sự lãnh đạo anh minh của Kim Lãnh Tụ. Trong các ví dụ được dùng
ở trường học, từ văn chương đến toán học, cuộc đời và sự nghiệp của
hai cha con họ Kim luôn được dùng để ví những điều tốt đẹp và "đế
quốc Mỹ xâm lược" luôn được dùng để ám chỉ những điều xấu xa tội
lỗi nhất trên đời. Sinh viên học sinh Bắc Hàn rất kiêu căng khi nói
về lịch sử và dân tộc Triều Tiên vì một lý do đơn giản, ngoài những
câu chuyện tuyên truyền được dạy ở trường, họ không biết gì về lịch
sử loài người và cũng không biết đúng về lịch sử của tổ tiên họ. Và
với một môi trường như thế, nhiều thế hệ người dân Bắc Hàn, hơn nửa
thế kỷ qua đã tiếp tục sinh ra, lớn lên trong số phận một loài chim
công nghiệp.
Mặc
dù những mẩu chuyện trên có thể gợi lại trong ký ức của những người
Việt lớn tuổi những hình ảnh, những tiếng thì thầm nghe rất quen quen,
tuổi thơ Việt Nam ngày nay dù sao cũng may mắn hơn những người cùng
tuổi với họ ở Bắc Hàn. Trong lúc nhiều nơi vẫn còn khó khăn, thiếu thốn,
đa số tuổi thơ Việt Nam đang có một đời sống tinh thần dễ chịu hơn tuổi
thơ Bắc Hàn. Bài học của thiếu nhi Việt Nam học hôm nay không đến nỗi
hoang đường như của thiếu nhi Bắc Hàn và bài hát của các em bé Việt
Nam hát không trơ trẽn khó nghe như những câu mà thiếu nhi Bắc Hàn dùng
để ca tụng cha con họ Kim. Hai mươi năm qua, ánh sáng bên ngoài đã theo
những khe hở của "chính sách đổi mới" rọi vào căn nhà Việt
Nam mang theo kiến thức mới lạ từ những phương trời khác. Qua những
khe hở đó, chúng ta cũng được nghe nhiều tiếng nói chân thành vọng ra
từ trong nước tương tự như chúng ta đang nghe những ưu tư trăn trở của
những người Việt đang sống ở ngoài nước dù họ đã một thời lớn lên bên
này hay bên kia sông Bến Hải.
Như
vậy có gì giống nhau trong hoàn cảnh của hai em thiếu nhi Bắc Hàn và
Việt Nam không? Có chứ. Hai cơ chế chính trị ảnh hưởng đến đời sống
của các em bé Bắc Hàn và Việt Nam về căn bản vẫn giống nhau. Hai con
nước đều bắt nguồn từ thượng lưu sông Volga trong những thập niên năm
đầu của thế kỷ 20 và vẫn còn đang chảy xiết. Cả hai cơ chế chính trị
đều nhằm ngặn chặn mọi suy nghĩ độc lập và hủy diệt mọi khả năng phản
kháng của con người. Quyền căn bản đầu tiên trong nghiên cứu khoa học
là quyền đặt vấn đề, thế nhưng quyền đó không đươc tôn trọng trong hai
xã hội Bắc Hàn và Việt Nam.
Hiện
nay, nhiều quốc gia và hàng trăm tổ chức thiện nguyện, tôn giáo, nhân
đạo khắp thế giới đang tìm mọi cách để cứu giúp thiếu nhi Bắc Hàn, nhưng
đồng thời, mọi người cũng đồng ý rằng, tất cả những gì họ đang làm chỉ
là những biện pháp vá víu trong lúc chờ đợi một sự thay đổi toàn diện
và căn bản.
Đúng
vậy, sinh mệnh của một quốc gia không thể thay đổi bằng vài bao bột
mì, hướng đi của một đất nước không thể được lót bằng dăm ba lon sữa
và hạnh phúc của một dân tộc không bao giờ đến bằng sự vuốt ve an ủi
từ những bàn tay thương xót bên ngoài. Số phận của một dân tộc phải
được quyết định bằng mồ hôi nước mắt, bằng những tấm lòng tận tụy với
tương lai dân tộc, bằng đức tính kiên nhẫn làm việc vì đất nước của
chính người dân nước đó. Và dù diễn ra dưới bất cứ hình thức nào, nhẹ
nhàng hay cứng rắn, xói mòn hay cường tập, thay đổi cơ chế chính trị
vẫn là mục tiêu quyết định của mọi cuộc cách mạng xã hội.
TRẦN
TRUNG ĐẠO
SaigonUSA
hoan nghênh ý kiến đóng góp của qúy vị độc giả. Xin type vào Comment
Box ở dưới đây và nhấn vào nút "Submit" để gởi đi.