|
545
E. Saint John St.
San Jose, CA 95112
USA
Tel: 408.998.0508
Fax: 408.993.0527
Email:
saigonusanews
@yahoo.com
|
|
|
V
Ă N H Ó A & G I Á O D
Ụ C
Trả
lời ông Nguyễn Thanh Giang
và các Đại Ca của ông: Hà Sĩ Phu, Ninh Bình
Dương
Thu Hương (Hà
nội, ngày 17 tháng 12 năm 2005)
Thưa
ông, tôi không rõ chính ông hay các quan thầy ông ở bộ Nội vụ đã liên
tục gửi những bài viết của ông, ông Ninh Bình và ông Hà sĩ Phu cho tôi
từ gần một tháng nay. Tháng trước, sau khi tôi cho đăng bài : Trả
lời ông Đinh ngọc Ninh là một loạt bài của cùng một thứ văn phong
A 25, đại loại : con mụ điếm già bán mình cho ngoại bang, nhân dân sẽ
trừng trị mày, mày sắp chết đến nơi, đồ vô học, đồ vô văn hoá…v…v…Kịch
bản này người ta đã dùng với tôi từ năm 1991, không phải bằng cách nhét
thư lén dưới khe cửa như bây giờ mà là một chiến dịch phổ biến rộng
rãi toàn đảng toàn dân, đặc biệt là giới trí thức. Chiến dịch này trực
tiếp do tướng Dương Thông và tướng Quang Phòng của Tổng cục I đảm nhiệm.
Sau khi ra tù, tôi được kể lại rằng cả bộ máy nhà nước lẫn bộ máy Đảng
đều tham gia vu khống nhục mạ tôi một cách say sưa, hào hứng. Mọi sự
chỉ được dừng lại khi tới thành phố Đà nẵng, một đảng viên về hưu bất
bình đứng lên hỏi :
-- Đảng không còn việc gì đáng làm hơn là việc dòm vào đũng quần
của một người đàn bà hay sao mà triệu tập chúng tôi đến đây nghe chuyện
này ?...
Lúc ấy, chắc bộ não của các nhà cầm quyền hồi tỉnh nên họ vội vàng ra
lệnh dừng chiến dịch này lại. Từ chỗ dùng toàn bộ hệ thống truyền thông
và các loại hội họp đoàn thể để vu khống nhục mạ một kẻ đối đầu đến
nay, chỉ dám khủng bố tinh thần bằng cách nhét thư nặc danh qua khe
cửa, mười lăm năm năm trôi qua cho thấy : không có gì chống lại được
thời gian.
Tuy nhiên, cách thức đổi thay nhưng kịch bản không thay đổi,vì thế,chẳng
có điều gì khiến tôi phải quan tâm. Điều đáng quan tâm duy nhất chính
là bài viết của các ông. Do đó, tôi sẽ trả lời ông, ông Ninh Bình và
ông Hà sĩ Phu trong cùng lá thư này. Phần thứ nhất dành riêng cho ông.
Phần thứ hai, chung cho cả ba người. Tôi không nhiều thời gian, cũng
không hề có ý định trao đổi hay liên lạc với cả ba ông. Chính vì bài
viết của các ông đã được nhét vào khe cửa nhà tôi ròng rã hàng tháng
trời, theo cùng một cách khủng bố, quấy nhiễu của bộ Nội vụ nên tôi
đành dẹp cuốn sách dang dở lại để làm cái việc mà tiền nhân gọi là :
Sự chẳng đành.
Trước hết, nếu những bài viết này do các quan thầy ông ở bộ Nội vụ gửi
thì họ quả là những kẻ cao tay đểu cáng. Nếu do chính ông gửi tới ông
đích thị là cao nhân mặt dày bởi cái ngày tôi đuổi ông ra khỏi nhà tôi
chưa xa, nếu tôi không nhầm đó là hai hoặc ba tuần trước ngày ông Trần
dũng Tiến bị bắt. Để khỏi dài lời tôi nhắc lại rằng từ khởi sự, tôi
đã tuyên bố thẳng thừng với tất thảy mọi người ông chính
là con chim mồi của tổng cục 1, rằng đừng một ai dẫn ông
tới nhà tôi và tôi sẽ không bao giờ tiếp xúc với ông cả. Nhưng vì được
giao nhiệm vụ : “Phải tiếp cận đối tượng bằng mọi cách” nên
ông hành sự theo mệnh lệnh. Lược trình như sau :
1- Ông nhờ Hùng râu, một người ốm yếu
đáng thương đến nhà tôi lải nhải không ngưng nghỉ. Những người quen
tôi đều biết rằng tôi không nỡ thẳng tay với những con người bị tước
đoạt, bị thua thiệt. Sau rốt, tôi đành nhận lời gặp ông ở cà phê Thuỷ
Tạ. Buổi đó, tôi kéo thêm một người ngoài cuộc là bác sĩ Thanh để chị
ta chứng kiến cảnh tôi mắng ông như tát nước vào mặt, hy vọng chút sĩ
diện nào còn tồn tại trong con người ông sẽ khuyên bảo ông kiềng mặt
tôi ra. Nhưng ý nghĩ của tôi là hão huyền.
2- Sau đó, ông nhờ ông Trần Đĩnh mời
tôi tới nhà ông ăn sinh nhật, khao bằng Viện sĩ Mỹ quốc. Tôi có cảnh
cáo ông Đĩnh : “Ông không phải bố tôi, chồng tôi,người yêu của tôi,
ông chỉ là một trong số những người bạn, vì lý do gì ông lại nhận lời
mời?...” Ông Đĩnh trả lời rằng ông ấy chỉ CHUYỂN chứ không phải
NHẬN và ông ấy biết rất rõ tôi ghét ông nhưng không có cách nào khác
để từ chối.
3- Tiếp nữa, ông nhờ người thuyết phục
tôi một cách chi tiết, tỉ mỉ rằng ông được nhà nước Mỹ tin cậy, sứ quán
Mỹ tới nhà ông dùng cơm bữa thân mật, rằng ông là ngọn cờ đầu của lực
lượng đấu tranh cho dân chủ hiện nay …Tôi trả lời : Mỹ là
Mỹ, tôi là tôi, tôi không ăn lương Mỹ để hành xử theo Mỹ. Mặt
khác, tôi là kẻ Một mình, tôi đấu tranh theo riêng cách của tôi, chỉ
liên hệ và kết hợp từng vụ việc với nhóm Dân chủ, trên nguyên tắc bình
đẳng và cả hai bên đều thuận tình. Cuộc đấu tranh của tôi là để làm
yên ổn lương tâm của chính tôi nên tôi không quan tâm đến ngọn cờ đầu
hay ngọn cờ cuối, tôi không dính líu đến phần xôi thịt. Nhà thuyết pháp
của ông (được trả thù lao bằng tiền mặt hay bia hơi mực nướng?...) tiu
nghỉu ra về.
4- Rồi, ông phái cậu thư kí của ông
ba lần tới nhà tôi,lần nào cũng vào khoảng hơn chín giờ sáng. Tôi thấy
rõ đó là một sinh viên thất nghiệp đang tìm mọi cách kiếm cơm nên chỉ
đáp : “Tôi không biết Nguyễn thanh Giang là ai.”. Tới lần cuối
cùng, đành phải sẵng lời : “Tôi không có nhu cầu quen thủ trưởng
của cậu, cũng không muốn đọc những bài ông ta viết. Đối với tôi ông
ta là một thằng mặt dày. Tôi yêu cầu cậu không được đến nhà tôi nữa.”
5- Sau rốt, ngày ông Trần dũng Tiến
đến nhà tôi để nhận bài viết ông đã bám càng ông ta theo vào và tôi
đã đuổi ông như người ta đuổi ma đói... Cái nghề nghiệp của ông tuyệt
vời thật, nó tạo ra một thứ phẩm chất mà chưa có từ ngữ nào diễn tả
nổi. Theo thói thường,những chính khách đã có thời từng lê lết trong
bùn phải tìm cách thủ tiêu chứng nhân của quá khứ. Nếu ngày đẹp trời
nào đó,với sự giúp đỡ của người Mỹ, ông lên ngôi tổng thống nước Việt
nam dân chủ, hẳn người ông muốn thủ tiêu đầu tiên là tôi, rồi tiếp đến
ông Trần dũng Tiến. Nhưng tiếc thay, cái ngày đẹp trời ấy chưa đến,
vậy ông phải kiên nhẫn chờ. Và trong khi chờ, hãy vui lòng đọc bài trả
lời của tôi.
Trước hết, để lý giải sự thất bại của ông, tôi xin biếu ông cái bí mật
này : Xưa nay, tôi chỉ bị lừa vì đàn bà thôi, và nói cho cụ thể hơn,bị
lừa vì nước mắt của họ.Ông không phải đàn bà, bộ mặt ông cũng không
thể nặn ra được vẻ đau khổ, cho nên ông phải thua. Thứ hai, ông không
may mắn vì ông đến sau bà Phương Quỳnh.
Trong quan
hệ với bà Quỳnh, tôi đã bị mê lú đến mức bỏ ngoài tai mọi lời cảnh cáo
của hai người đàn em tôi, cho đến lúc chúng nó sao được chính bản báo
cáo của bà Phương Quỳnh tôi mới chịu tin. Tôi đã thấm thía sự ngu dại
của mình. Tôi không cho phép có thêm một lần nữa. Như thế, nhiệm vụ
: “Tiếp cận, thâm nhập, nắm chắc đối tượng thù nghịch” chỉ
có bà Quỳnh thực hiện nổi còn ông thì không vì ông thiếu hụt sức hấp
dẫn và chữ THỜI. Thêm nữa,bà Quỳnh tuy giỏi nhưng sau cùng cũng không
đạt được mục tiêu lên làm giám đốc nhà xuất bản Thế giới vì hai vị thần
bảo trợ của bà là Dương Thông và Quang Phòng gãy cánh cùng cấp trên
Mai chí Thọ,như thế chân lý cổ xưa : “Thiên định” hãy còn hữu hiệu.
Trở lại công việc của ông, tôi xin nói ngay rằng đó cũng là một nghề
hấp dẫn vì nó đòi hỏi trí thông minh và một ý chí sắt đá.Nghề ấy vinh
hay nhục tuỳ theo từng hoàn cảnh cụ thể và theo cách đánh giá của người
đương thời. Trước ông, từng đã có những người làm điệp viên cho cộng
sản Hà nội, ông Ngô trí Nhạ chẳng hạn. Rất nhiều người trong số đó có
tôi vô cùng kính phục ông Nhạ.
Trong tình thế chiến tranh người có lương tri phải đặt quyền lợi dân
tộc trên quyền lợi bản thân và gia đình. Ông Ngô trí Nhạ đã hành động
như vậy. Không chỉ ông Nhạ mà cả những nghệ sĩ, những nhà văn lớn trên
thế giới cũng đã từng hết mình ủng hộ chính quyền Hà nội, ông Jean Paul
Sartre, bà Jane Fonda và rất nhiều gương mặt rực rỡ khác….Chỉ có điều
buồn thảm là sau đó mọi người đều nhận thấy mình đã sai.
Ông thủ tướng Thuỵ điển Palmer đã dẫn đầu các đoàn biểu tình phản đối
chính quyền Hà nội xâm lược Campuchia, ông Jean Paul Sartre và bà Jane
Fonda tuyên
bố thẳng thừng là rất ân hận vì đã ủng hộ cho những tên đao phủ của
chính dân tộc Việt nam vào lúc nạn thuyền nhân gióng lên tiếng chuông
báo động khắp địa cầu. Còn ông Nhạ, theo một logic chặt chẽ hẳn ông
cũng đau đớn lắm nhưng ông sẽ không bao giờ dám lên tiếng như ông Jean
Paul Sartre hay bà Jane
Fonda, bởi
vì ông sống ở trong nước chứ không ở ngoài nước. Và, rất có thể theo
một logic khác, một nỗi đau quá lớn,một nỗi thất vọng quá khủng khiếp
giống như một cái vực quá sâu, khiến con người không đủ can đảm nhìn
thẳng vào nó, nhất là khi người ta đã ở tuổi xế chiều.
Đối với ông Nhạ, không ai dám khinh bỉ bởi vào lúc ông làm việc cho
Hà nội, ông chỉ nhìn thấy đấy là người áo vải cờ đào đang đứng lên đánh
đuổi giặc ngoại xâm, còn ông, ông làm tôi mọi cho một chính quyền mà
ngay đến những người dân bình thường nhất cũng biết đó là bọn sâu mọt
tàn độc. Cho nên, cùng một nghề nhưng vị thế khác nhau, đòi hỏi những
nhân cách khác nhau.Và vì nhân cách khác nhau, buộc phải hứng chịu những
cách ứng xử khác nhau của người đời. Tôi không biết rõ những người khác
đối đãi với ông ra sao,nhưng riêng phần tôi, ông chính là kẻ bị tôi
khinh bỉ và nhục mạ nhất, tôi chưa từng đối đãi với ai như vậy, kể từ
lúc tôi trưởng thành cho tới nay, tuổi sáu mươi. Hồi ở trong tù,tôi
thường xuyên chửi đám người hỏi cung tôi là :”lũ chó hầu hạ mấy
thằng già óc đầy bã đậu, bụng đầy mỡ với cứt .” Tôi chửi họ nhưng
trong lòng tôi vẫn thương họ, vì tôi hiểu con người khó mà lựa chọn
số phận, khó mà lách ra ngoài vòng quay của xã hội, nhất là một xã hội
chật chội, khép kín như Việt nam. Đối với ông, hoàn toàn ngược lại,
bởi không phải là Số phận chọn ông, chính ông chọn số phận.
Ông đã chọn trò chơi này vì ông tin rằng ông làm chủ được nó, rằng đến
một giờ A hay giờ Z nào đấy, ông sẽ đặt cả hai phía : Các nhà dân chủ
liên kết với ông và các quan thầy ông phải công nhận một sự đã rồi :
LỘNG GIẢ THÀNH CHÂN. Nhưng bọn quan thầy ông cú cáo hơn ông tưởng. Vào
lúc uy tín của ông vọt lên như pháo thăng thiên ở trong nước cũng như
ngoài nước, tổng cục 1 ném ra bản thú tội của ông trong tù, câu chữ
rõ ràng, nét bút phân minh không cãi vào đâu được. Cũng từ tổng cục
1 qua báo An ninh việc ông khóc lóc điều trần rằng ông yêu Đảng, ông
muốn vào Đảng nhưng không ai cho ông vào…ầm ĩ khắp nơi như món nộm thêm
vào các bữa ăn trưa của đám dân Hà nội. Nghĩ cũng tội nghiệp cho ông,
ông chính là nạn nhân cho sự tự tin thái quá vào bản thân mình. Những
kẻ đứng trên đầu ông có thể thua ông tấm bằng viện sĩ nhưng nghề Đểu
thì chắc chắn phải uyên thâm và chuyên nghiệp hơn ông. Xưa nay, trong
giới công an có hai hiện tượng Lộng giả thành chân :
1. Trong số sư đểu có những người bị chinh phục bởi
giáo lý nhà Phật,do cơ duyên, do tố chất thiện bẩm sinh còn chưa bị
nghề nghiệp và môi trường giết chết, họ trở nên giác ngộ thật sự và
trở thành chân tu. Số này tuy không nhiều nhưng khiến các ông kễnh đau
đầu bởi một khi đã trở thành chân tu, họ không còn chịu điều khiển của
bộ máy bộ nội vụ cho dù chẳng dám công khai tuyên bố.
2. Đa số công an bị đánh vào làm đặc tình để nghiên
cứu bọn nghiện ma tuý lại trở thành các con nghiện trầm trọng, khó cai
nghiện hơn nhiều con bệnh lâu năm khác.Trong số này có những người vĩnh
viễn không còn khả năng phục hồi buộc phải giải ngũ và gia đình không
tránh khỏi con đường tan nát.
Như thế, trước khi giao việc cho ông, các thủ lĩnh của ông đã lường
trước khả năng này và họ cho ông rơi mặt nạ vào đúng thời điểm định
trước. Tội nghiệp cho ông, diễn viên phố huyện mà lại dám qua mặt nhà
hát quốc gia!... Giá như ông nghiện ma tuý họ chỉ chép môi thương hại,hoặc
ông trở thành sư chính hiệu họ cũng chỉ khó chịu rồi cho qua nhưng ông
lại muốn trở thành rường cột Cuốc ra, đại diện gần một trăm triệu dân
Việt nam bắt tay với Mỹ quốc….Chao ôi, món mồi to quá,làm sao các quan
thầy của ông chịu nổi?. Còn cả trăm vương tôn cộng sản đang nhăm nhe
chờ đợi, sức mấy tới lượt ông?...
Nhưng các quan thầy ông không làm tôi mấy quan tâm,tôi trở lại với bài
viết của ông,đặt tên : “Chợ trời dân chủ”, trong đó nổi lên
hàng loạt những chi tiết vụn vặt nhằng nhịt trong mối quan hệ giữa ông,
ông Hoàng minh Chính, ông Hoàng Tiến, ông Hà sĩ Phu., ông Ninh Bình…Cả
một tháng trời bị quấy nhiễu vì món cháo ôi này nhưng thực tình tôi
vẫn không thể nhớ đầy đủ các tình tiết,cho nên tôi sẽ chỉ đề cập tới
những ý chính thôi:
Thứ nhất ông lên án ông Hoàng minh Chính là người gia
trưởng.
Đúng quá, bởi ông ấy hơn tám mươi tuổi rồi, nhất là vì đã có thời làm
quan cộng sản. Tôi chưa từng hân hạnh làm quan nhưng cũng gia trưởng.
Chính do thói quen gia trưởng nên tôi không chịu tốn phí thời giờ thuyết
phục mà doạ nạt con cháu tôi : “Đứa nào đuổi theo con đường quan
chức, sống tao từ, chết tao về phá bàn thờ”. …Phần ông, ông còn
gia trưởng hơn ông Chính. Ông hãy nhớ lại lần gặp tôi ở Thuỷ Tạ, câu
đầu tiên ông nói với tôi là “Chị phải tiếp tục viết bài,tham gia
đóng góp với anh em dân chủ” Tôi đáp : “Tôi không phải làm
theo ý ai cả. Trên đời này chỉ một người được quyền ra lệnh cho tôi,
nhưng ông ấy đã chết rồi” Trong một xã hội nông nghiệp lạc hậu,
mọi sản phẩm dù nhiều hay ít đều mang theo tính chất và dấu vết cái
khuôn đúc ra nó. Cả ông Chính, cả ông, cả tôi đều chui ra từ một cái
lò. Phải có thời gian cho mọi sự đổi thay. Vì thế,trước khi phán xét
người khác, hãy tự sờ lên gáy.
Thứ hai, ông Hoàng minh Chính háo danh. Đúng quá, nhưng
ông còn háo danh hơn. Lần vào viện Việt - Xô thăm anh Trần Độ, tôi nhìn
thấy tuyển tập những bài báo ca ngợi ông được in thành một cuốn dày
cộp để dưới chân giường,tôi cười sằng sặc hỏi : ”Thế nào tướng quân?
nhậu được món này à?...” Anh Trần Độ lắc đầu,chép miệng: “Cậu
này háo danh khiếp thật !...”. Nếu tạm ví như ông và ông Chính
cùng thích đặc sản Mắm tôm đậu phụ, mắm tôm của ông nặng mùi hơn.
Thứ ba,
ông Chính là kẻ hữu dũng vô mưu, nói trắng ra là ngu dốt, bộp chộp.
Nếu đúng vậy, ông phải cảm ơn sự ngu dốt của ông ấy một ngàn lần, bởi
lẽ,nếu ông ấy khôn ngoan, thận trọng, biết chọn đúng người tử tế, biết
coi trọng chất lượng hơn số lượng, biết đặt rào chắn để canh phòng những
kẻ giả mạo, địch tình thì chắc chắn không bao giờ ông lọt vào sâu được
đến như vậy, để ngày hôm nay, ông đánh từ tung thâm đánh ra. Tiếc thay,
trên đời này chữ NẾU không tồn tại và bao giờ con người cũng chỉ nhìn
ra sự thật khi bức tường đã sụp.
Thứ tư, ông Chính là kẻ ba hoa,phét lác. Tôi không
được biết cụ thể về việc đó nhưng tôi biết rõ ràng một kẻ ăn gian nói
láo khác là chính ông.Chính ông, Nguyễn thanh Giang, đã bị tôi đuổi
một cách nhục nhã trước mặt ông Trần dũng Tiến nhưng ông lại bịa chuyện
với một ông già công nhân tên là Trần Đoàn, số nhà 114, đường Cầu Giấy,
điện thoại số 8342527 rằng ông Hoàng Tiến nhờ ông Trần dũng Tiến dẫn
đến nhà tôi, kích động tôi viết thư tay vu cáo ông là công an …Khi tôi
gọi đến số điện này, ông Trần Đoàn kêu than rằng ông ấy già nên trót
dại, rằng ông ấy đang bận việc bán nhà để chia tiền cho con cái, xin
hẹn bốn ngày sau sẽ gặp. Khi gặp ông ta, tôi thấy đó là một người vừa
thành thực vừa láu cá, thứ láu cá thường thấy ở dân nửa quê nửa tỉnh,
mà người ta gọi nôm na là dân ven đô. Đặc biệt, thiếu hoàn toàn óc phân
tích và khái niệm về logic. Ông Trần Đoàn tự kể với tôi lịch sử cá nhân
ông, rằng ông ấy vốn là đứa trẻ bị vứt ra lề đường, đi ăn mày tứ phương
trước khi vào lính, rằng ông ấy chưa bao giờ được bước vào trường học,
óc đặc đến mức trong thời gian còn tại ngũ,ở tiểu đoàn công binh, khi
cấp trên cho đi học bổ túc, không thể nào trả bài toán cho giáo sư nên
đành làm thơ lục bát xin thầy tha bổng…Tôi không hiểu vì sao ông có
thể làm nổi một việc vừa thất nhân tâm vừa ngu ngốc như vậy ?...Bởi
vì, tính dối láo điêu toa của ông đã đẩy một người bẩy mươi bẩy tuổi
vào vòng sợ hãi lẫn hổ thẹn. Mặt khác, hành vi dối trá này không đem
lại một kết quả cỏn con nào vì cả người bị ông xui dại lẫn những kẻ
bị ông vu khống đều chưa chết, mà Hà nội thì bé như một cái làng,đâu
có phải cảnh … “muôn trùng quan san” như ngày xưa …?
Thứ năm
: Ông chế riễu ông Chính là phường tuồng Quảng Lạc. Cứ cho là như vậy,nhưng
vào cái ngày mà anh em dân chủ bị đưa ra xử,người thông minh,uyên bác,tiến
sĩ viện sĩ như ông sao không ra động viên chiến hữu mà ngồi nhà ôm vợ
hay uống trà, vì lí do sợ bão hay sợ công an, lý do nào thì cũng khốn
nạn. Nếu đã không ra thì chí ít cũng phải im mồm đi chứ. Đằng này, không
những ông không biết hổ thẹn, lại còn mỉa mai ông Chính là phường tuồng
Quảng lạc và trách ông Chính gọi tên ông. Xã hội cộng sản là xã hội
tiêu biểu cho tính chất chuyên chính, tàn bạo. Trong xã hội ấy, sự sợ
hãi nghiền nát con người, bẻ còng lưng họ xuống. Những ai dám đối đầu
với xã hội ấy buộc phải chấp nhận nỗi cô đơn khủng khiếp, nhiều khi,
cô đơn ngay trong chính gia đình mình. Ở vào hoàn cảnh ấy, một ánh mắt
đồng tình, một tiếng chào, một câu nói cũng đã là niềm an ủi quý giá,
huống chi sự cổ vũ của những người cùng chí hướng. Cho nên, dù là tuồng
Quảng Lạc hay chèo Thái Bình, nó cũng vẫn có giá trị khuấy động sự sợ
hãi tê liệt như băng giá đông cứng bao trùm lên xã hội và cảnh báo thói
quen “Trùm chăn đánh chết người một cách an nhiên” của kẻ cầm
quyền.
Qua đây, tôi càng thấm thía nguyên lý vĩnh cửu của đạo Phật, và hiểu
một cách sâu sắc hơn vì sao trong tất thảy những kiếp nạn của loài người
tính Tham được đặt lên trên. Ông vừa muốn là ngọn cờ đầu của phong trào
dân chủ, lại vừa muốn được yên thân, nhàn thân. Ông quên rằng mọi trò
chơi đều phải trả giá. Và tất thảy những kẻ điêu toa, gian manh, lươn
lẹo, dẫu có khôn ngoan, tính toán, dẫu có bày binh bố trận đến đâu,
cuối cùng mặt thật cũng lộ ra.
Bây giờ, qua năm điểm chính,tôi xin tổng kết lại : Ông căm ghét, ông
nhục mạ ông Chính vì ông có nhiều điểm giống ông Chính.Thiên hạ tổng
kết từ lâu rồi : Những kẻ giống nhau quá không thể chịu được nhau. Chỉ
có điều về chuẩn mực của kẻ cầm quyền, ông thua điểm.
Tôi chứng minh :
1- Người Việt nam vốn tôn trọng Bậc lão thành. Trong
cụm từ này bao gồm nhiều nghĩa : nghiệm sinh, độ bền qua những thử thách,
phẩm chất ưu thắng của con thú đầu đàn mà phẩm chất này ở những người
làm cách mạng (hoặc làm giặc,theo một cách gọi khác) không gì dễ đo
hơn là những năm tháng ngồi tù. Ông bị tù bao lâu?... một năm hay năm
rưỡi?... Ông Chính tù mười bốn năm. Cùng là tù của cộng sản nhưng ông
ngồi tù thời phe xã hội chủ nghĩa đã tan rã, bức tường Berlin sụp đổ,
chỉ còn hiu hắt Cu-ba,Việt nam rúc sau cái đuôi gà Trung quốc một cách
thảm hại, và thêm một nửa Bắc Triều Tiên đang điên khùng đói khát sống
bằng cách giơ bom nguyên tử doạ láng giềng để đổi lấy bát cơm giống
như gã Chí Phèo của Nam Cao giơ dao bầu dọa Bá Kiến để xin bữa rượu.
Trong cái tình thế đó, Đảng cộng sản Việt nam dù có thong manh cũng
không thể không nhìn thấy sự thế đã xoay vần. Bởi vậy, các ông mới là
những tù nhân chính trị đầu tiên được hưởng chính sách : CỦ CÀ RỐT.
Theo chính sách này, ông cũng như ông Hà sĩ phu được ngủ giường đệm,
ăn 50.000 đồng một ngày, toilette hiện đại, tivi xem thoả thuê. Ông
Chính bị tù thời Đảng còn được coi và tự coi mình là Thần thánh nên
các tù nhân bị ngược đãi như xúc vật, hai thứ tù đó khác xa nhau,cứ
đọc lại cuốn :”Đêm giữa ban ngày” của Vũ thư Hiên là biết.
2-
Bất cứ người nào muốn trở thành con chim đầu đàn cũng phải có phẩm chất
làm TRƯỞNG. Thế nào là làm trưởng ?...Ông viện sĩ hãy nhớ lại câu nói
nôm na của dân quê: “Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng”.
Câu này có thể không đúng nếu đặt nó vào một xứ khác, ví như châu Âu,
nhưng trong xã hội Việt nam cổ truyền nó gần như đã thành chân lý. Với
tinh thần thực tiễn người nông dân thấy rằng đứa con gái trưởng của
họ cùng một lúc đảm trách rất nhiều vai trò, nó vừa là tá điền vừa là
vú em,vừa là kẻ canh giữ cửa nhà vừa là đứa sai vặt cũng lại vừa là
đầu bếp…Mà nó lại thực hiện mọi phận sự một cách tự nguyện, đó mới là
điều đáng quý. Cái phẩm chất đáng quý ấy gọi là tinh thần đảm trách.
Tinh thần đảm trách là nguyên lý cốt lõi là tiêu chí thiết yếu cho một
tập thể khi họ muốn chọn người đại diện.
Dù anh tài giỏi đến đâu,uyên bác đến đâu nhưng anh không có khả năng
lo lắng,săn sóc cho tất thảy mọi người, quan tâm đến những lợi ích chung…
thì xin anh hãy ngồi nhà để làm người hùng cho vợ anh thán phục, làm
thần tượng cho con cháu anh tôn thờ, làm siêu nhân cho bố mẹ của riêng
anh… tóm lại làm quân vương trong biên thùy của gia tộc mình. Trong
nhóm Dân chủ cỏn con ở xứ này, xét trên tinh thần đảm trách, liệu ông
có hơn được ông Chính hay không ?...Để khỏi mất thời gian vô ích với
một người mắc chứng đứt dây thần kinh xấu hổ như ông,tôi xin đưa dẫn
chứng : Sau khi ra tù, ông Quế Dương gọi điện thoại cho tôi để cảm ơn
tôi đã viết bài đấu tranh cho ông ấy. Tôi trả lời việc đó không cần
làm vội hãy đến nhà ông Chính vào buổi chiều để gặp tôi. Chiều hôm ấy
tại nhà ông Chính tôi cho ông Quế Dương biết rằng chính ông Hoàng minh
Chính đã mời tôi đến,nói cho tôi biết tình hình của ông trong tù, đưa
thư của vợ ông cho tôi và do đó tôi mới viết bài : “Hà nội, tháng sáu
năm 2004”. Như thế,hãy cảm ơn ông Chính chứ không cần cảm ơn tôi. Tôi
suốt ngày ở trong nhà không biết sự gì xảy ra bên ngoài cánh cửa. Lúc
đó,ông Quế Dương mới biết chuyện. Còn ông, tôi không rõ ông đã giúp
Nguyễn Vu Bình những gì nhưng để quảng cáo và tuyên truyền cho cái thành
tích đó, ông đã tốn quá nhiều nước bọt.
Thêm nữa, tôi hoàn toàn không biết ai trong nhóm dân chủ trẻ tuổi vì
đã từ lâu tôi hầu như bãi bỏ mọi giao tiếp. Cho đến tận hôm nay,nhờ
ông Hoàng Tiến tôi mới biết Đỗ nam Hải cũng chính là Phương Nam. Nếu
trong các bài báo của tôi gần đây có được tên những ông Sơn, ông Bình,
ông Toàn…ấy là nhờ ông Chính kể lại từng người, hoàn cảnh sơ lược và
tình hình hiện tại, có như vậy tôi mới có đủ ấn tượng để viết …
Tóm lại,quan tâm tới những người cùng hội cùng thuyền, săn sóc họ và
gia đình họ tới mức tối đa trong khả thể, lo lắng và tranh đấu cho họ
cũng ở mức tối đa trong khả thể, điều ấy ông Chính làm bội phần tốt
hơn ông. Tôi không tin ông Chính làm tất thảy những công viêc nhọc nhằn
và nguy hiểm ấy chỉ vì háo danh. Tính háo danh, ông ấy có nhưng cũng
chỉ bằng năm mươi phần trăm tính háo danh của ông,Nguyễn thanh Giang,
nếu như người ta có thể đo nó bằng số học. Nhưng ngoài tính háo danh,ông
ấy có một phẩm chất mà nơi ông thiếu hụt, đó là lòng tốt bẩm sinh. Đã
hơn mười năm nếm cơm mục, mì thiu trong nhà lao cộng sản, đang ngồi
ghế bộ trưởng rơi xuống xà-lim, có lúc hoạt động mãnh liệt, có lúc nản
lòng, có thời nếm vinh hoa, có thời bị dày vò nhục mạ…dưới cái vẻ hăng
hái thô thiển mà ông gọi là hữu dũng vô mưu,là xồn xồn, là tuồng Quảng
lạc…ông ấy là người từng trải và vì từng trải,ông ấy lo lắng thương
xót cho những người đang ở trong tù.
Người ta có câu : “Chưa thấy quan tài chưa nhỏ lệ”. Câu ấy
dành cho ông trong trường hợp này là hoàn toàn chuẩn xác. Ông bước vào
cuộc chơi với Bộ óc của điệp viên và tâm hồn của kẻ gian thương đầu
cơ quyền lực.
Ngoài hai thứ đó, ông không có gì hơn. Ông chưa bao giờ đau khổ vì chế
độ này. Ông cũng không có khả năng cảm thông với những người bị chế
độ này chà đạp. Cho nên,nếu để ví von một cách thô thiển thì ông chỉ
là một thứ hoa bằng nhựa, nó lừa được mắt những người ở xa, không lừa
được mũi những ai đứng gần .
Như vậy, đã tạm
đủ cho ông tự nhìn lại bản thân chưa ?... Lịch sử của một dân tộc không
phải lúc nào cũng sáng chói, ngay cả những dân tộc hùng mạnh nhất. Lịch
sử cũng không sản sinh thường xuyên những vĩ nhân cũng như những anh
hùng. Bởi nếu họ được sản xuất thường xuyên như những đôi giầy thì họ
sẽ không còn là vĩ nhân và anh hùng nữa. Trong dòng chảy bình thường
của sự tiến triển,trên cái nền của những con người phàm tục như tất
thảy chúng ta, chuẩn mực chung được chấp nhận là : LẤY CÔNG LÀM LÃI.
Tôi cứ coi như ông Chính cũng có những khiếm khuyết, thậm chí những
tính xấu giống hệt như ông, ngay cả trong trường hợp giả định này là
đúng, công của ông ấy vẫn lớn hơn ông gấp nhiều lần, cả một bề dày lịch
sử buộc những người khác phải kính nể, hoặc khoan nhượng, hoặc tha thứ
cho những lỗi lầm do hạn chế về trình độ và sự lão hoá. Ông lớn tiêng
chê bai ông Chính là hữu dũng vô mưu, là bộp chộp. Ông còn hành động
bộp chộp hơn cả ông Chính,ông muốn :”Tốc chiến, tốc thắng” ,ông quyết
tâm : “Đốt cháy giai đoạn “ … Chiến lược, chiến thuật của ông khiến
tôi nhớ lại khẩu hiệu ám ảnh tôi đằng đẵng một thời : “Chúng ta
quyết tâm đốt cháy giai đoạn tư bản chủ nghĩa,tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội…”. Hẳn ông còn nhớ, khẩu hiệu ấy là của Đảng quang vinh.
Bây giờ, để kềt
thúc phần thư gửi riêng cho ông, tôi nói thêm hai điều :
1- Sau khi đuổi ông đi, tôi chưa hề kể lại chuyện đó
với ai, kể cả các con tôi, bởi tôi không muốn quảng bá nỗi nhục của
một con người, cho dù người đó là ông. Giờ đây, đọc bài viết của ông,
tôi thấy ông lớn tiếng chửi ông Chính và nhân tiện dạy đời là : “Khi
con người đã bị danh vọng chi phối thì họ trở nên độc ác, ti tiện như
thú vật…”, tôi đành phải nói rõ ngọn ngành sự thực, để từ giờ tới
lúc xuống mồ, trước khi muốn lên giọng hạ nhục ai ông phải tập cho được
thói quen kiểm soát lại bản mặt của chính mình.
2- Tôi không ghét ông Chính như ông (vì lẽ tôi không
có nhu cầu cạnh tranh với ông ấy) nhưng tôi cũng không thích ông Chính.
Nói một cách sòng phẳng, trong nhóm Dân chủ, ngoài ông Hoàng Tiến là
đồng nghiệp quen biết từ hơn ba mươi năm trước, tôi chí có một người
bạn là Trần Độ mà thôi. Anh Độ chết rồi, tôi không có nhu cầu tìm người
thay thế. Vả chăng, người ta chơi được với nhau còn do cơ duyên, do
tính tình tương hợp. Một nửa người coi như bạn cũng đã là nhiều, cần
chi kết bè tụ nhóm. Nhưng trên nguyên tắc,tôi không quan niệm rằng tôi
có quyền nhận xét,đánh giá mọi người theo tình cảm của riêng mình. Hoặc
nói cách khác, một người trung thực thì phải biết đánh giá người khác
một cách trung thực và muốn như thế cần phải cảnh giác tối đa với cảm
xúc của bản thân.
Bây giờ, tôi sẽ
chuyển sang phần thứ hai, phần chung cho cả ông, ông Hà sĩ Phu, ông
Ninh Bình.
* * *
Trước hết,tôi có một quan sát rằng trong bài viết của ông, những ý kiến
của ông Hà sĩ Phu được đưa ra như chân lý cuối cùng,như chuẩn mực bằng
vàng ròng và sau những lời châu ngọc của ông Phu tất thảy mọi chân trời
đều khép lại. Thái độ này khiến tôi nhớ thời quá vãng. Trong thời ấy
ông thánh Karl Marx là chân lý tối thượng,là lời phán quyết cuối cùng
đối với mọi tư tưởng và hành vi của con người. Tôi nhớ lại những hội
nghị văn học và chỉnh huấn,nếu một quan chức Đảng đứng lên hùng hồn
tuyên bố : “Marx đã nói rằng…” như thế coi như bản phán quyết
đã xong. Các nạn nhân không còn quyền chống án mà chỉ còn chuẩn bị khăn
gói vào hoả lò nếu tội nặng đi trại cải tạo nếu nhẹ hơn, hoặc về vườn
đuổi gà cho vợ nếu may mắn nhất. Đặc biệt, có vô số đảng viên bị khai
trừ khỏi đảng, đứng dưới cờ búa liềm và ảnh Karl Marx, Lénine khóc khư
cha chết, không phải vì họ sai lầm tư tưởng mà vì họ trót hoạt động
cái phần dưới rốn …không theo mệnh lệnh của chi bộ…
Tội nghiệp thay cho những người cộng sản Việt nam …Bởi họ không biết
rằng chính ông thánh Marx của họ là một gã chơi gái ngoại hạng, mười
sáu tuổi đã ra vào nhà thổ như cơm bữa, đặc biệt thích lang chạ với
đàn bà tsigan. Sau này, khi lấy được Jenni rồi vẫn không chừa thói trăng
hoa, mò xuống ngủ với đầy tớ gái khiến cô ta mang thai và lòi ra một
đứa con ngoại hôn, thứ sản phẩm mà người xưa vẫn gọi là : Dâm nô… Người
như Marx, xét theo tiêu chuẩn của các tiền nhân là thứ người nhảm nhí
và nếu gặp ở những đám khao vong hay giỗ chạp trong làng, họ sẽ không
chịu ngồi chung mâm …Cho nên, cách bám víu lấy một ai đó xem như thần
bảo mạng là một trò nguy hiểm. Trong bài viết của ông, ông đưa ra ba
nhậnđịnh của ông Hà sĩ Phu, xem như ba sự kiện làm tổn thất cho phong
trào dân chủ. Tôi chỉ quan tâm đến nhận định liên quan tới ông Hoàng
minh Chính thôi. Ông Phu xem như chuyến đi Mỹ của ông Chính là một thất
bại, làm tổn hại đến phong trào…Điều này không có cơ sở.
Trước hết, nội
dung những gì ông Chính nói ở Mỹ là hoàn toàn cũ . Tất cả những điều
đó, ông Chính đã nói ngay ở Hà nội. Cũng ngay ở Hà nội, ông Chính đã
chủ trương liên hiệp với tất thảy các lực lượng đấu tranh cho dân chủ
ở bất kì đâu, Mỹ, Châu Âu hay Úc. Và những điều ấy, ông Chính không
chỉ nói một lần. Ông ấy bị ám ảnh từ rất lâu bởi giấc mơ này. Một trong
những điều khiến tôi không thích chơi với ông Chính là ở đây. Câu chuyện
của ông Chính vô cùng đơn điệu vì chỉ có một chủ đề duy nhất là chính
trị , tôi vốn không chịu nổi những cuộc đối thoại chỉ có một chủ đề.
Có lúc hai,ba năm tôi mới tới nhà ông Chính mà còn bíêt rõ nội dung
những ý tưởng của ông ấy, không lẽ ông Hà sĩ Phu hoàn toàn không biết
gì ?...Đó là một giả thuyết gần như phi lý,xác xuất rỗng. Như thế, sẽ
chỉ còn lại hai khả năng : Hoặc là, ông sợ công an và ông phải tuyên
bố sự ly khai chính thức của ông để tránh bị đàn áp. Hoặc là vai trò
của ông Chính trong chuyến đi Mỹ khiến ông cay mũi, và do đó, dù là
con người nho nhã ,ông cũng không thể cầm lòng?...
Nếu khả năng thứ nhất là hiện hữu, miễn luận bàn, bởi nó chỉ thuộc riêng
ông thôi và ông có quyền chọn lựa.
Tôi chỉ bàn về khả năng thứ hai vì nó đã,đang, và sẽ liên quan tới nhiều
người. Chuyến đi Mỹ của ông Chính có hai chiều kích. Đó là cuộc du lịch
của một chiến sĩ đấu tranh cho dân chủ nhằm liên kết với các lực lượng
dân chủ ngoài biên giới. Nhưng trước hết, và quan trọng hơn hết là chuyến
đi để tìm sự sống của một con bệnh trong trạng thái vô vọng. Tất
cả mọi người đều biết rõ rằng ông Chính ở lại là chết. Đương
nhiên tất cả chúng sinh đều phải chết nhưng ở đây tôi muốn nói rằng
cái chết sẽ đến với ông Chính một cách vô cùng mau lẹ nếu ông ấy còn
ở lại trong nước và tiếp tục điều trị với các phương pháp lẫn thuốc
men của bệnh viện Việt -Xô. Nhiều người đã đến giục vợ ông làm di chúc.
Những đứa con của ông đã khóc vụng sau lưng ông. Đa số những người quen
biết đã chuẩn bị tinh thần cho một chuyến biệt ly vĩnh viễn…
Tóm lại, chuyến đi Mỹ đã trả lại cho ông Chính cuộc sống hoặc nói chính
xác hơn,kéo dài cuộc sống cho ông. Đối với bất cứ một con người bình
thường nào, với văn hoá trung bình và lòng tốt cũng ở mức trung bình
cũng sẽ mừng cho ông. Vậy tại sao ông Hà sĩ Phu lại coi chuyến đi của
ông Chính là tổn hại đến nền dân chủ.?... Lý do nào tiềm ẩn trong nhận
định ấy?...
Ông còn trích dẫn những lời lẽ đầy bay bướm của một ông văn sỉ hay thi
sĩ nào đó rằng : “Đi là chết….” Xin lỗi, từ xưa đến nay không
có người tử tế nào xui kẻ khác chết cho một mục đích nào đấy, dù cao
đẹp như Tổ quốc, nhân loại hay tự do…trong khi mình lại sống nhăn nhăn.
Một người chính trực thì luôn luôn phải nhận trách nhiệm về mình trước
khi nhằm vào người khác,cho dù người khác đó là chồng, vợ, mẹ, con hay
anh em, đồng chí. Cái hạng người xui kẻ khác chết đã có từ thượng cổ
và người ta đặt tên cho nó là Lý Thông … Nếu để cho cái bè Dân chủ được
nổi, nếu qủa tình ông Hà sĩ Phu muốn vậy thì bản thân ông phải nhảy
xuống nước chứ không thể đẩy ông Chính xuống được. Làm như thế là ác
là hèn là tham. Ác vì coi cái chết của người khác là hiển nhiên. Hèn
vì tự mình không dám chết. Tham vì muốn dự vào một bữa cỗ nào đó [nền
dân chủ chẳng hạn, hoặc tượng đài của những người đi tiên phong trong
cuộc đấu tranh cho dân chủ] mà mình vẫn được toàn thân. Cho nên, trong
những người chống cộng sản ở hải ngoại tôi tôn trọng ông Hoàng cơ Minh,
dẫu rằng tôi biết nhiều người khác cũng hành động một cách cao thượng
và hiệu quả. Để phác hoạ nên sơ đồ tâm lý của một nhân vật như Hoàng
cơ Minh, tôi ngờ rằng ông ta cũng có nhiều nét “xồn xồn” kiểu ông Chính,
cho nên ông ta mới rơi vào bẫy bọn “chống cộng cò mồi”, và phải trả
giá bằng sinh mạng của mình. Cũng từa tựa như ông Chính rơi vào bẫy
của ông Giang ….Thật ra, mọi sự so sánh đều không chuẩn xác, nhưng khi
chưa tìm được một cách diễn đạt nào hiệu quả hơn, chúng ta đành phải
chấp nhận những thứ “đồ tầm tầm”.
Bây giờ, tôi trở lại điều nghi vấn : Lý do nào xui khiến ông Hà sĩ Phu
đưa ra nhận định có tính tiêu cực một cách toàn cục như vậy về ông Hoàng
minh Chính ? Vào đúng thời điểm ông Chính đang bị hệ thống truyền hình,
truyền thanh,báo chí…tóm lại tất cả guồng máy văn hoá, thông tin và
tư tưởng của đảng lẫn nhà nước nghiền nát? Bên trong, cuộc đấu đá, mạt
sát giữa ông Chính với ông Giang cũng lên tới hồi chót, đã có lúc ông
Giang tuyên bố rằng ông ta muốn nhổ vào mặt ông Chính…v…v…và v…v…? Cũng
không có gì quá bí hiểm ở đây. Cuộc tranh giành quyền lực của con người
vốn là cuộc đấu tranh khốc liệt nhất từ cổ chí kim. Trong bất cứ một
băng đảng, đoàn, nhóm, triều đình nào, khi một sự “Đánh giá lại” được
đưa ra, có nghĩa là vào lúc ấy âm mưu lật đổ hay tiếm quyền đã hình
thành, con người chỉ còn đợi thời cơ và chọn phương thức để hành động.
Ông Chính đã già, thậm chí quá già, theo ý tôi. Việc một ai đó trong
nhóm lên thay là đương nhiên, là cần thiết. Ấy là việc nội bộ của các
ông. Đối với tôi, trừ Nguyễn thanh Giang – tôi nhắc lại vì ông là đặc
tình, còn bất cứ ai, dù là ông Quế Dương,ông Hoàng Tiến,ông Hà sĩ Phu,
ông Phương Nam…hay mai đây ông Sơn, ông Bình, ông Toàn…đều như nhau
cả. Nếu một ai đấy lên thay ông Chính, liên hệ với tôi và yêu cầu hợp
đồng tác chiến tôi cũng sẽ làm như đã từng làm với ông Chính với điều
kiện duy nhất là Trời Phật còn cho tôi sức khoẻ và sự minh mẫn. Nhưng
bất kể một hành vi nào của con người cũng phóng chiếu nhân cách của
họ. Và cùng một hành vi nhưng xảy ra trong những tình thế khác nhau
tố cáo những tâm địa khác nhau. Anh cười trong đám cưới anh là người
vui vẻ. Anh cười trong cảnh tang tóc, anh là phường bất nhân. Các ông
có thể tranh cãi, giành giật chức tước vào bất kể ngày nào đó…Nhưng
chính vào lúc một ông già vừa ốm thập tử nhất sinh, lại đang bị hệ thống
quyền lực đàn áp…việc đó, đối với tôi thật ghê rợn…Có lẽ chính vì quan
niệm như thế mà tôi không bao giờ có ý muốn làm chính trị.
Các ông chỉ nhìn thấy khía cạnh đáng thèm khát của cuộc viễn du: Nào
là được kiều bào đón tiếp, nào là được gặp gỡ những nhân vật quyền thế,
vinh danh …Tôi thấy mặt thứ hai của cuộc viễn du : ấy là một con bệnh
phải chịu thêm hai lần mổ. Chắc chắn ông Chính đã phải cố gắng rất nhiều
để đứng được cho thẳng lưng, để bàn tay chết lạnh giữ nổi những cử chỉ
bình thường…Không ai chống lại được thiên nhiên, kể cả người luôn luôn
gồng mình lên như ông Hoàng minh Chính.
Tại sao một người thông minh, nho nhã như ông Hà sĩ Phu lại không nhìn
ra điều ấy?...ông cũng đã từng là người bệnh và ông hiểu sự tàn khốc
của những nỗi đau ?. Chỉ có thể lý giải được thái độ của ông bằng một
điều thôi : Sự vị ngã. Nếu không vì sợ công an thì chỉ có sự vị ngã
mới có thể xui khiến ông hành động như vậy. Khi con người bay lượn trên
bầu trời vị ngã, tất thảy mọi sinh linh khác đối với nó trở nên vô nghĩa,
nhỏ nhoi. Sức hút địa cầu đặt trong tâm điểm của lòng tự ái và tự tôn.
Tất thảy mọi tư tưởng lẫn hành động của con người đều bị quy chiếu vào
đấy. Hẳn ông tự biết và cũng nhiều người công nhận rằng ông là cây bút
lý luận số 1 trong nhóm Dân chủ. Rằng công lao của ông trong việc giác
ngộ ,nâng cao nhận thức,phổ cập lý luận cho quần chúng là rất đáng kể…Vậy
mà giờ đây một kẻ võ biền, lý luận kém cỏi,nói năng thô lỗ…lại đương
nhiên đứng lên đại diện cho ông …ấy là chưa kể tới việc ông ta có thể
được nhận những món viện trợ khổng lồ …mà ông không được biết…(đương
nhiên ông sẽ không bao giờ tuyên bố công khai điều này, nhưng ở đây
tôi làm phép loại suy, căn cứ trên những điều các ông đã trao đổi với
nhau về “…tính lươn khươn của ông Trần Khuê…”. Cũng có thể
đây là sự “méo mó nghề nghiệp “ của tôi. Nếu ông “trong ngọc trắng
ngà “, xin lượng thứ.)
Hơn mười năm trước,
khi ông xuất hiện trên bầu trời dân chủ như một ngôi sao sáng chói với
những bài viết sắc lẻm, khúc chiết, văn phong giản dị hàm súc, đại bộ
phận những người đọc đều trầm trồ,tấm tắc. Tuy nhiên,có một nhóm người,
tôi tạm gọi là các bậc trí giả vì họ ít nhất cũng có từ hai đến ba ngoại
ngữ.Họ chuyên làm các loại từ điển hoặc dịch những tác phẩm có tính
chuyên sâu. Các bậc trí giả Hà nội bảo tôi rằng những bài viết của ông
đều rút tỉa, sao chép, xào nấu lại hoặc mô phỏng, phóng tác những ý
tưởng của các triết gia, chính trị gia hoặc văn gia ngoại quốc. Và để
minh hoạ, họ đọc cho tôi một lô tựa đề những tác phẩm phương Tây. Lúc
đó,tôi đã bảo họ rằng :
-- Các ông tài giỏi hơn sao không tự viết bài tham dự vào cuộc đấu tranh
cho đất nước. Cho dù ông Hà sĩ Phu chỉ nhặt nhạnh, rút tỉa từ những
tác phẩm đã in ở nước ngoài,nhưng ông ta biết dẫn nhập vào tình hình
cụ thể của Việt nam. Như thế đã là công lớn.
-- Tôi cho rằng tôi bảo vệ ông Hà sĩ Phu là hoàn toàn đúng. Đất nước
chúng ta lạc hậu ít nhất cũng năm mươi năm so với các nước văn minh.
Bất cứ ai làm điều gì, bằng con đường nào để thúc đẩy sự phát triển
đất nước,để nâng cao dân trí đều đáng trân trọng. Vả chăng, theo cụ
Đào duy Anh, một trong những học giả xuất sắc nhất mà xứ sở chúng ta
có được, khả năng sáng tạo không phải là thế mạnh của người Việt. Tôi
xin trích vài câu trong tác phẩm : “Việt nam văn hoá sử cương “
do nxb Quan hải tùng thư in tại Huế năm I938 : “Về tính chất tinh
thần thì người Việt nam đại khái thông minh,nhưng xưa nay ít thấy có
người trí tuệ lỗi lạc phi thường…..Tính khí cũng hơi nông nổi không
bền chí,hay thất vọng,hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài,ưa hư danh
và thích chơi cờ bạc.Thường thì nhút nhát và chuộng hoà bình,song ngộ
sự thì cũng biết hy sinh vì đại nghĩa. Não sáng tác thì ít,nhưng mà
bắt chước,thích ứng và dung hoà thì rất là tài…” Sau này, để tìm
một cách diễn đạt mới và hấp dẫn hơn, ông Phan Ngọc dùng chữ bricolage
: “Bản sắc văn hoá,do đó, không phải là một vật mà là một kiểu quan
hệ. Kiểu quan hệ kết hợp, chúng đến từ nhiều gốc khác nhau, nhưng tạo
nên một thể thống nhất hữu cơ kì diệu. Tôi tạm dùng chữ bricolage, người
Việt nam là bậc thầy về nghệ thuật bricolage…” – [Phan Ngọc, 1994].
Như thế, cái được và cái không được của ông Hà sĩ Phu cũng đều nằm trong
các dữ liệu có tính “tiền định“ của dân tộc. Và như thế,nếu ông là người
tỉnh táo, nói theo cách nôm na là “biết điều” thì ông sẽ mãi mãi giữ
được sự tôn trọng của mọi người. Nhưng giờ đây ông đang bay lượn trên
bầu trời của sự độc tôn vị ngã, ông phán quyết ông Hoàng minh Chính
theo cái lối “xanh rờn”, nên thưa ông, tôi buộc phải kéo ông trở về
mặt đất để ông nhớ lại ông đang đứng ở đâu.
-- Toàn bộ các sản phẩm của ông được rút tỉa, chế biến từ khoảng mười
hai cuốn sách được coi là thiết yếu cho những ai muốn nghiên cứu các
xã hội công sản. Vì tôi chưa bao giờ có ý định cạnh tranh với ông để
trở thành cây bút lý luận xuất sắc trong nhóm dân chủ nên tôi không
thể nhớ toàn bộ các cuốn sách ấy. Tôi chỉ nhớ bốn cuốn thôi. Đó là :
1- Sách đen về chủ nghĩa cộng sản [Le livre noir du
communisme -crimes,terreur et répression] của nhóm tác giả: Stéphane
Courtois- Nicolas Werth – Jean Louis Panné – Andrzej Paczkowski – Karel
Bartosek – Jean Louis Margolin.
2- Cuốn sách nổi tiếng của nhà văn Pháp Olivier Todd,
có chủ đề là : Sự tương hợp giữa chủ nghĩa cộng sản và chế độ gia trưởng.
Tôi không còn nhớ chính xác tựa đề, chỉ nhớ trong cuốn sách ấy, Olivier
Todd đã phân tích một cách hoàn hảo sự xâm nhập và thống lĩnh của chế
độ cộng sản trên các quốc gia đang còn chịu ảnh hưởng nặng nề của chế
độ gia trưởng, tóm lại, bản đồ của phe xã hội chủ nghĩa được đặt trùng
khít lên bản đồ của các xứ sở còn ở trong vòng ngự trị của chế độ gia
trưởng và bản đồ đó không thể lan tới những đất nước mà chế độ này đã
cáo chung (châu Âu chẳng hạn).
3- Cuốn “Biện chứng là gì?...” của Karl Popper. Đây
chỉ là một phần trong cuốn “Conjectures and refutations, nxb London
năm 1976. Với sự tài trợ của sứ quán Áo, một dịch giả đã dịch phần “What
is dialectic ?...” vào năm 1995, từ bản dịch tiếng Nga của G.A.Novichkov.
Phần này chưa quá một trăm trang, nhưng trong đó Karl Popper đã bẻ gẫy
phép biện chứng của Karl Marx một cách hoàn hảo đến nỗi tất thảy những
kẻ thờ Marx buộc phải căm thù Karl Popper. Đây cũng chính là lý do ban
văn hoá tư tưởng Việt nam dấy lên chiến dịch chửi tôi là kẻ : “Tự nguyện
làm tôi tớ cho ngoại bang” mấy năm về trước vì một lẽ : Tôi là người
kính trọng triết gia Viennois này.
4- Cuốn : “Xã hội mở và những kẻ thù của nó” của Karl
Popper. Theo tôi, cuốn sách này vẫn có thể làm cẩm nang cho các chiến
sĩ dân chủ tại những xứ sở chậm tiến trong một thời gian dài dù tác
giả của nó đã chết.
Thưa nhà lý luận
Hà sĩ Phu, xin ông tha lỗi vì trí nhớ ngắn ngủi của tôi. Nhưng tôi nghĩ
chỉ riêng bốn cuốn ấy cũng đã quá đủ nguyên liệu để chế biến,xào xáo đối
với một người thông minh như ông. Ngoài ra, tôi cũng có dịp được đọc một
cuốn sách ngoài lề, được nhiều người văn hay chữ tốt như ông ưa chuộng,
đó là cuốn : “Đế quốc bất động” hay là ; “Sự va chạm của các thế giới”
ở đây, có thể hiểu là sự va chạm của các nền văn minh . Cuốn này do nxb
Fayard in. Tác giả là viện sĩ hàn lâm Alain Peyrefitte. Trong cuốn sách
này, các ông có thể tìm ra hết sức dễ dàng các hệ quy chiếu châu á phong
kiến và làm phép liên tưởng cũng như so sánh Trung quốc với Việt nam …Tóm
lại, tài năng của ông tuy chói lọi nhưng nó vẫn nằm trong bầu trời của
cái truyền thống bricolage thôi. Và nằm trong bầu trời quen thuộc ấy,
ông cũng đã không tránh được một thứ khí quyển cũng rất quen thuộc, một
thứ truyền thống tiêu cực, một tính xấu được lưu giữ,bảo tồn khá chặt
chẽ,người ta gọi nôm na là ghen ăn ghét ở hoặc văn vẻ hơn là lòng đố kị.
Lòng đố kị không nhất thiết phải là kẻ song sinh với tinh thần vị ngã
nhưng với một số trường hợp, nó không những là kẻ song sinh mà còn là
cách thức độc tôn để biểu thị tinh thần vị ngã. Trong trường hợp này,
bi kịch xảy ra. Hệ quả là sự phá hoại và nỗi bất hạnh. Sự phá hoại và
nỗi bất hạnh xảy ra cho cả hai phía: kẻ đố kị lẫn nạn nhân của họ.
Đến đây,tôi xin được hầu chuyện ông Ninh Bình. Lần đầu đọc văn của ông,
đã thấy ngay rằng ông rất thích ra lệnh, có nghĩa là ông đặc biệt thích
xài thể văn mệnh lệnh.
-- Không được đụng đến dân tộc !
Ông ra lệnh. Vậy thì tôi sẽ đụng đến dân tộc. Và tôi chờ xem ông sẽ lấy
ý kiến của các bà nông dân Cần Thơ, Sóc trăng hay Rạch giá…đòi treo cổ
tôi hay đem tôi ra pháp trường tùng xẻo…(Như báo An ninh thành phố
Hồ chí Minh đã làm trong chiến dịch đàn áp tôi mấy năm trước…) Xưa
nay, mị dân vẫn là phương tiện kiếm lời nhanh nhất, thuận tiện nhất của
các chính trị gia, dù tả hay hữu, Dân chủ hay Cộng hoà. Nhưng không may
cho ông, tôi chưa bao giờ nuôi mộng làm chính trị, mà tôi cũng đã nhìn
thấy cảnh các ông bà nông dân hành hạ, đả đảo, bắn chết địa chủ khi tôi
tám tuổi.
Dưới
đây là các hình ảnh kinh hoàng "đấu tố-cải cách ruộng đất" Bắc
Việt 1955
Photos
by Dmitri
Baltermants ©, Russian Photographer (1912-1990)
A
"People Court" of a "bourgeois" landowner in North
Vietnam, 1955. He was executed on the spot.
Thế nên cả thể
văn mệnh lệnh lẫn sự doạ nạt của ông đối với tôi xem ra …”chưa phê”. Cố
tìm cách khác,may ra có hiệu quả hơn. Tôi chờ. Trong khi chờ, tôi tiếp
tục công việc của tôi. Cách đây vài tháng,trong bài : “Trả lời ông Đinh
Ngọc Ninh “ tôi đã đề cập tới một truyền thống tiêu cực của dân tộc Việt
nam, đó là : “Hèn nhát trước nội xâm. Nói cách khác là có thói quen
khuất phục kẻ cầm quyền trong mọi tình thế, mọi hoàn cảnh, chỉ có khả
năng suy nghĩ lại khi bị dồn đến chân tường của cái đói và cái chết…”.
Giờ, để hầu chuyện ông,một người yêu dân tộc theo lối phèng phèng thanh
la, não bạt MI DÂN, tôi xin đưa ra tính cách tiêu cực thứ hai của dân
Việt, đó là lòng đố kị. Hiển nhiên rằng toàn thể nhân loại đều có chung
những tật xấu như nói dối, ăn cắp, vụ lợi, đố kị, tham lam,ích kỉ, óc
phân biệt chủng tộc…nhưng nồng độ của những thói tật ấy không ở cùng một
vạch trên thước đo. Nếu thống kê tìm xác suất,hẳn kết quả sẽ cho những
con số khác nhau.Ví dụ, dân tộc nào cũng có những tên kẻ cắp,những thành
viên sống bằng nghề móc túi nhưng để tìm ra một quốc tịch tiêu biểu cho
số lượng lẫn chất lượng “nghề nghiệp”, thì dân châu Âu thường kể tên dân
tsigan gốc roumanie…Rất có thể trong tương lai, đất nước này sẽ phát triển
kinh tế, rồi cùng với những thói quen mới trong đời sống công nghiệp lối
sống lang thang với nghề hát rong,nhảy múa rong hoặc ăn cắp sẽ dần dần
biến mất…Không có gì vĩnh cửu và con người đổi thay theo dòng chảy của
cuộc sống…Nhưng chúng ta sẽ không thò cổ ra khỏi biên giới để nhìn người
tsigan, hãy quay lại với bản địa vì ở đó đã có quá nhiều vấn đề phải tính.
Từ xưa đến nay đã có bao nhiêu tác giả ca ngợi những đặc tính tích cực
của người Việt ?...Không ai đếm xuể. Dường như nhân loại trên hành tinh
này có bao nhiêu ưu điểm thì người Việt chúng ta có tất, nếu không muốn
nói là còn đồng bộ và hoàn chỉnh hơn …Yêu nước, anh dũng, cần cù, thông
minh, sáng tạo, lạc quan, nhân ái…Nếu chúng ta có toàn bộ những phẩm chất
ưu tú của nhân loại thì duyên cớ nào mà chúng ta vẫn còn đứng trong danh
sách mười nước nghèo nhất thế giới ?... Các quan chức Việt nam luôn luôn
có bàn tay hứng gió vì phải ngửa ra xin tiền. Trước đây, trong thời
kì chiến tranh lạnh thì ngửa tay xin các nước “anh em phe xã hội chủ nghĩa”,
còn giờ đây thì ngửa tay xin viện trợ liên hiệp quốc, viện trợ của các
tổ chức phi chính phủ…và vừa rồi, ông Phan văn khải sang Mỹ, xin
con người giàu nhất hành tinh : Bill Gates. Chịu một số phận như vậy không
có gì đáng để quá tự hào như thói quen suy nghĩ của rất nhiều người. Bởi
lòng tự tin và tự hào là những phẩm chất cần thiết cho hiện sinh. Nhưng
chỉ với điều kiện nó đồng hành với tinh thần duy trí và khả năng tự phân
tích. Trượt khỏi nguyên tắc ấy, con người rơi vào bi kịch của sự lố bịch.
Họ chỉ gợi nên sự thương hại hoặc nhạo báng nơi tha nhân.
Trở lại bàn về các tính cách tiêu cực của người Việt, tôi xin lưu ý hai
ông, ông Hà sĩ Phu và ông Ninh Bình rằng người Việt nam có một phẩm chất
đúp, nghĩa là một cặp tính chất song hành,giống như hai mặt của đồng xu,
như cặp song sinh Thái lan nổi tiếng lưng dính vào nhau, và hai tính cách
ấy lần lượt đổi thay theo tình thế mà hiện diện, nổi trội và tác động
lên tiến trình phát triển lịch sử của dân tộc.. Mặt tích cực là tinh thần
đoàn kết. Mặt tiêu cực là thói ghen ăn ghét ở, đố kị. Tinh thần đoàn kết
của người Việt được thể hiện một cách rõ rệt nhất vào những lúc mối nguy
cơ chung dồn đẩy tất cả mọi người vào một hoàn cảnh : Giặc ngoại xâm,
lũ lụt, hoả hoạn, cướp bóc…Đặc biệt là trong các cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm, tinh thần đoàn kết của người Việt trở thành, cùng một lượt,
sức mạnh vật chất và năng lượng tinh thần khiến họ vượt qua mọi gian lao
…Nhưng khi cuộc sống đã trở lại nhịp điệu bình thường, khi kẻ thù chung
đã biến mất khỏi chân trời xa xôi mà chỉ còn lại những người gần gũi bên
kia bờ dậu,những người gần gũi ấy lại trở thành các đối tượng của cuộc
cạnh tranh thường nhật. Cuộc cạnh tranh thường nhật ở xã hội Việt nam
xưa là cuộc cạnh tranh trong sự tù đọng của bốn luỹ tre làng, nơi con
người sinh sôi không ngưng nghỉ nhưng đất đai không những không hề sinh
nở mà còn xơ xác bạc màu theo năm tháng. Công cuộc đô thị hoá chưa có.
Một nền thương mại cho xứng đáng với số dân của đất nước cũng chưa hình
thành. Con đường ra biển không hấp dẫn được người Việt vì tính họ sợ phiêu
lưu, ưa ngồi nhà rang thóc cắn chắt hơn là thăm thú, kiếm tìm vàng ở những
hòn đảo lạ …Với một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu không lối thoát, tư
tưởng và tâm hồn con người không thể chắp cánh bay. Vậy mà dù muốn hay
không, con người cá nhân vẫn tồn tại, sự vị kỉ vẫn theo nó như kẻ đồng
hành,ý thức về cái tôi vẫn chi phối suy tư cũng như hành động …tất thảy
những yếu tố đó dẩn đến,một cách không tránh nổi, theo cách diễn đạt khác
thì có thể coi là gần như tiền định, cái tính cách tiêu cực có tính phá
hoại của người Việt, đó là tinh thần đố kị …: ”Cùng một cánh đồng
mà lúa nhà nó tốt hơn lúa nhà mình, mỗi sào hơn hẳn ba thúng thóc…Cùng
một lứa lợn giống sao vợ nó mát tay thế, bán cả lứa năm con,con nào cũng
ngót nghét bảy chục cân, trong khi lợn nhà mình chưa nổi nửa tạ…Cùng một
vườn cà chua, nó bán đầu vụ, một kí hơn ba ngàn. Cà nhà mình chín đúng
lúc chợ ngập cà chua thiên hạ, bán tống bán tháo cũng không nổi năm trăm
đồng một kí…” Với thứ tâm lý đại loại như vậy, trong bối cảnh của
một nền kinh tế tiểu nông bí bức như ngõ cụt, không tương lai. Cộng thêm
tính vị ngã vốn là một trong những bản năng gốc của con người, thói đố
kị là hậu quả khó tránh.
-- Khi đã là một tính cách phổ biến, dù che đậy hay phô bầy, dù công nhận
hay phủ nhận, nó cũng vẫn là một hiện thực và hiện thực đó đập vào mắt
tha nhân. Năm 1997, nhóm sinh viên ngoại quốc đang sống và làm việc tại
Hà nội kể cho tôi nghe một trong những chuyện tiếu lâm chính trị do họ
sáng tác. Chuyện có tựa đề : “Giấc mơ Việt nam.” Tôi xin lỗi
ba ông nếu các ông đã nghe chuyện này rồi, vì nó rất phổ biến trong thời
gian ấy.
GIẤC MƠ VIỆT NAM
Chuyện rằng, vào dịp kỉ niệm ngày thành lập Hội những nhà du hành vũ trụ
quốc tế, hai nước đi đầu trong lĩnh vực này là Mỹ và Nga chung nhau chế
tạo một phi thuyền mang tên ”Du lịch vì hoà bình“ nhằm tổ chức một chuyến
bay cho đại diện công dân các nước khắp hành tinh. Vì biết chắc các bậc
rường cột quốc gia sẽ dành vị trí trong cuộc rong chơi thần thánh này
nên ban tổ chức quyết định dùng một đội máy bay trực thăng đặc biệt nhằm
”Bắt cóc có thoả thuận “, có nghĩa là họ sẽ cuỗm bất cứ công dân nào gặp
ngẫu nhiên trên cánh đồng hoặc trên đường phố. Phương sách ấy xem ra là
tối ưu vì tránh được mọi sự bầu bán, kiện tụng. Đoàn du hành gồm các công
dân bình thường, không hề có chuẩn bị nên không thể đối phó với các tình
thế theo các phản xạ được tập rượt trước. Họ cũng không được dạy bảo,
bồi dưỡng những lời hay ý đẹp nên họ chính là những con người lý tưởng
để các nhà tâm lý học nghiên cứu tính cách dân tộc. Như thế, cuộc chọn
khách du hành một cách ngẫu nhiên được đánh giá là tuyệt hảo.
Rồi, con tầu khởi hành trong sự hài lòng của ban tổ chức lẫn niềm vui
tràn ngập của du khách. Khi phi thuyền lượn tới vòng thứ ba quanh trái
đất, lúc này giống như quả cam lớn màu xanh, nhà tâm lý học lên tiếng:
-- Chúng tôi không dám làm bất cứ điều gì để phá vỡ hoặc gián đoạn
những giây phút hạnh phúc này. Nhưng chúng tôi sẽ rất hân hạnh nếu được
biết giờ đây,các vị đang mơ ước điều gì ?...
Đương nhiên là các vị khách trong chuyến du hành không phải trả tiền sẽ
vui lòng thoả mãn yêu cầu của ban tổ chức. Trước hết, công dân Mỹ lên
tiếng :
-- Tôi đang mơ ngày người Mỹ bay lên sao Hoả. Khi mà các phi hành
gia và các nhà bác học đã nghiên cứu đầy đủ điều kiện sống trên đó, tôi
sẽ dành tiền mua vé lên chơi. Trong trường hợp vợ chồng tôi không đủ tiền
dành dụm, con gái chúng tôi sẽ giúp. Tôi hy vọng là như thế…
Người tiếp theo đương nhiên là công dân Nga. Anh ta vừa nói vừa tu chai
Vodka :
-- Ồ, tôi không mơ bay lên sao Hoả hay sao Kim vì trên đó sẽ không
có rượu Vodka và trứng cá đen mà chỉ có thức ăn đựng trong ống plastic.
Nhưng tôi mơ hải quân Nga sẽ thống lĩnh địa cầu, việc mà người Anh đã
làm từ hai thế kỉ trước. Khi chúng tôi chế ngự toàn bộ các lãnh hải, kể
cả Bắc cực và Nam cực, chúng tôi sẽ thuê vệ tinh của người Mỹ để bay quanh
trái đất chơi …Như hôm nay chẳng hạn…Và đương nhiên chúng tôi không chỉ
đem theo Vodka với trứng cá đen, mà còn cả xúc-xích Nga và cần tỏi muối…
Người Nga chưa kịp kết thúc,người Thổ nhĩ Kì đã cướp lời :
-- Chúng tôi không cần lên mặt trăng, vì hình ảnh trăng lưỡi liềm
đã thuộc về nền văn minh rực rỡ Bizantine từ nhiều thế kỉ trước. Chúng
tôi cũng không thích lên sao Hoả vì đó là trò chơi tốn kém. Nhưng chúng
tôi sẽ chế tạo café đặc biệt dành bán cho các phi hành gia và du khách.
Tiền lời thu được, chúng tôi sẽ xây những giáo đường lộng lẫy tuyệt vời
để thờ thánh Allah…
Tiếp đó tới lượt người Trung hoa, người Brazin, người Pháp, người Úc…Sau
rốt, tới lượt người Việt nam. Anh ta ngắc ngứ hồi lâu, rồi khi thấy tất
cả các du khách quay lại nhìn mình,anh ta cuống lên đáp:
-- Tôi ước…tôi ước gì con lợn nhà gã láng giềng chết toi vì dịch.
Khi nghe xong câu chuyện ấy, tôi cảm thấy như bị cả một nồi cháo sôi tạt
vào mặt. Và tôi cười. Bởi vì tôi không thể khóc. Nhất là khóc trước mặt
những sinh viên nước ngoài trẻ tuổi. Tôi biết họ hoàn toàn không có ác
ý. Những câu chuyện của họ chỉ phản ánh đơn thuần những nhận xét khách
quan trước sự vật mà thôi ….
Hai năm trước đây, tình cờ tôi xem được một số đĩa giảng kinh do nhà xuất
bản tôn giáo thành phố Hồ chí Minh in bán. Trong số đó, có đoạn hoà thượng
Thích chân Quang nói về tính cách người Việt nam. Tôi không nhớ rõ từng
lời,nhưng tôi nhớ ý. Ông Thích chân Quang nói rằng, từ thuở thiếu thời,
ông ấy đã nghe nói rằng một người Việt nam đứng riêng rẽ thì bằng một
người Nhật. Nếu ba người Việt nam đứng với nhau thì thua ba người Nhật.
Vậy thử hỏi gần một trăm triệu dân Việt sẽ thua dân tộc Nhật đến bao nhiêu
lần?...Ông Thích chân Quang chỉ khoảng tứ tuần, thuộc thế hệ sau nhưng
vẫn băn khoăn, vẫn phiền tâm vì thói đố kị của người Việt. Như vậy, căn
tính này KHÔNG PHẢI LÀ ẢO ẢNH MÀ LÀ HIỆN THỰC. Và, một dân tộc, nếu không
dám đối mặt với hiện thực, sẽ không bao giờ tìm được cho mình con đường
sáng trong tương lai.
Thưa ông Ninh Bình, chính trị gia tương lai của đảng Dân chủ (nếu có một
ngày mai như thế…) Liệu ông có tập hợp quần chúng đi phá chùa, đốt kinh
và treo cổ hoà thượng Thích chân Quang hay không ?.
Thói ve vuốt đám
đông, tâng bốc những người khác một cách vô lối và phi lý bao giờ cũng
là mặt tiền của một ngôi nhà mà bên trong ẩn chứa bọn lưu manh cùng
những mưu ma chước quỷ. Tính hai mặt của những kẻ làm chính trị và những
kẻ cầm quyền cũng không phải là thứ con người vừa khám phá ra. Trước
đây, thời Việt nam còn ra rả chửi Mỹ, người chửi Mỹ có bài bản nhất,
hay ho nhất chính là bộ trưởng bộ ngoại giao Nguyễn cơ Thạch. Nhưng
khi ông ta chửi Mỹ một cách ráo riết ngoài mặt thì bên trong lại xin
Mỹ cho con cháu ông theo học và cư trú. Giờ đây, trong chuyến tầu vét
của lịch sử, những kẻ cầm quyền Hà nội chỉ còn một con bài duy nhất
là Mị dân. Không có bài ca nào dễ hát và thích hợp hơn là : ”Bài
ca không quên…”…Đừng quên, đừng quên, không quên, không quên…bao
nhiêu người đã ngã xuống trong hai cuộc chiến tranh thắng Pháp và thắng
Mỹ…để dân tộc ta trở thành tấm gương sáng cho các dân tộc về phẩm chất
anh hùng…. không quên, không quên, không quên, dân tộc ta anh hùng,
bao nhiêu người đã ngã xuống cho ngày hôm nay độc lập, tự do ….
Đúng, bao nhiêu người đã ngã xuống THẬT, nhưng Độc lập Giả và Tự do
Giả. Độc lập giả vì không thể có độc lập thật khi anh còn ngửa tay xin
tiền các nước khác. Tự do giả vì đại bộ phận những người khác chính
kiến đang còn nằm trong nhà tù, không chỉ có các chiến sĩ đấu tranh
cho dân chủ mà còn cả các nhà thừa hành tôn giáo. Ví dụ : Hoà thượng
Thích Thiện Minh đã ngồi tù cả thảy mười một năm,nếu tôi không nhớ nhầm.
Ông Thích Thiện Minh không phải trường hợp đặc biệt được ăn cơm tù mà
còn biết bao nhà sư khác và các linh mục Thiên chúa giáo, linh mục Tin
Lành, Hoà Hảo… Ở Việt nam hiện tại chỉ có một thứ tự do dành riêng cho
những kẻ cầm quyền, một thứ tự do ngoại hạng, bất khả xâm phạm, đó là
thứ tự do tham nhũng của các quan lớn. Và thứ tự do này chỉ bị tổn thất
khi các quan chia phần không đều nhau. Nếu ăn cắp theo kiểu bè rau muống,
nghĩa là rải vàng khắp lượt từ trên văn phòng thủ tướng lẫn ban tổ chức
trung ương đảng rồi xuống đến cơ sở cuối cùng có uy lực và liên trách
nhiệm thì mọi sự sẽ êm nhẹm như buồm xuôi gió. Trường hợp ăn chia không
đều, ắt vỡ lọ mắm tôm… Và nếu để đánh giá sự việc cho thật công bằng,thì
trong trường hợp này, tính đố kị, thói ghen ăn ghét ở lại có hiệu ứng
tích cực. Nhờ nó, lọ mắm tôm mới được xì ra cho công chúng ngửi…
Tuy nhiên, trên tổng số gần một trăm triệu người Việt, số quan lớn,những
kẻ được hưởng thứ tự do nhũng lạm đó không chiếm quá 0,5 phần trăm,
nên chúng ta không thể đem khía cạnh tích cực có tính cục bộ của thói
ghen ăn ghét ở mà áp dụng chung cho cộng đồng. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh
rằng chính sách mị dân bao giờ cũng có bộ mặt thứ hai của nó. BỘ MẶT
ẤY CÓ TÊN LÀ SỰ TRỤC LỢI. Vậy thì, thưa ông Ninh Bình, ông mị dân hơi
sớm. Ông đã cầm quyền đâu mà vội ?... Kẻ cầm quyền bây giờ hót đủ bài
ca mùi mẫn vào tai dân chúng là để họ quên đi những vụ ăn cắp khổng
lồ của chúng, là để chúng có thời giờ rửa tiền cho sạch, chuyển tiền
ra nước ngoài cho êm thấm …để rồi mai đây, các món nợ quốc gia chồng
chất lên vai các thế hệ con cháu chúng ta, còn bọn “Chuột ngày” thì
đã cao chạy xa bay với gia đình chúng. Các nhà băng Châu Âu, Mỹ, Băng-cốc,
Singapour, Úc…đã sẵn sàng chờ…Không có gì mới !... Kịch bản viết sẵn
cho tất thảy lũ độc tài trên khắp hành tinh. Đặc biệt là những nước
kém phát triển nhất. Công gô chẳng hạn. Thưa ông Ninh Bình, nước Việt
nam của ông và của tôi xếp hàng trên hay dưới Công Gô ?...
Bây giờ, tôi
xin trở lại với vấn đề : Những đặc tính tiêu cực của dân tộc. Cụ thể
là tính đố kị. Tôi đọc thấy rõ rệt tính cách này phía sau phản ứng của
ông Hà sĩ Phu với ông Hoàng minh Chính. [Xin nhắc lại,trừ trường hợp
ông phải làm và chấp nhận làm điều này dưới ngọn roi của công an]. Như
tôi đã nói ở phần trên,không có ai phủ nhận rằng về mặt lý luận ông
Hà sỉ Phu sắc sảo hơn ông Chính. Hơn nhiều, nếu muốn nói một cách chính
xác. Nhưng trong một phong trào, người ta không chỉ cần lý luận mà còn
cần hành động. Có triều đình nào tồn tại được nếu chỉ dựa vào quan văn?...Bởi
khi giặc đã tràn qua biên thuỳ, vấn đề sinh tử không còn ở kẻ bày mưu
nhưng ở người trên lưng ngựa. Cho nên thuật điều hành triều chính quan
trọng nhất là cầm trịch và giữ hoà khí giữa hai hàng quan văn, quan
võ. Phong trào dân chủ tuy trứng nước nhưng nó vẫn là một phong trào
và nó vẫn cần những người đảm trách việc hành chính cũng như bếp núc
chung. Trên phương diện này, ông Chính là người tận tụy. Mấy năm gần
đây, tôi chứng kiến cảnh ông ấy chạy ngược chạy xuôi để lo tìm luật
sư bào chữa cho anh em bị tù, ông ấy vận động các lực lượng tiến bộ
ngoài nước cũng như trong nước lên tiếng ủng hộ anh em, ông ấy hội họp
mọi người để đi thăm gia đình các tù nhân …Chưa kể rằng trong các cuộc
xử án, dù bất cứ ở đâu,dù chính quyền rời chuyển phòng xử án tới hang
cùng ngõ hẻm nào, ông ấy cũng có mặt…Các ông đừng quên rằng tôi không
phải bạn ông Chính, cũng không có nhu cầu liên lạc thường xuyên. Tôi
chỉ đến nhà ông Chính khi được mời, với lý do duy nhất là liên hiệp
chiến đấu. Một người hoạ hoằn khi dăm bảy tháng, khi một vài năm mới
tới nhà ông ấy mà còn nhìn thấy sự việc như vậy, trong thực tiễn chắc
chắn ông ấy phải làm được nhiều hơn cho phong trào, dù tuổi đã cao.
Và hai ông, Nguyễn thanh Giang cũng như Hà sĩ Phu, khi vinh danh làm
các ông hoa mắt, khi lòng ghen tị khiến các ông ù tai, các ông đã hoàn
toàn quên rằng vào thời gian các ông bị tù, chính là lão già “tuồng
Quảng Lạc’, hữu dũng vô mưu, chính cái lão “xồn xồn “ ấy đã chạy chọt,
kêu cứu mọi người đấu tranh cho các ông được tự do. Chính ông ta chứ
không phải là ai khác.
Cho nên, tôi mới kết luận rằng tính đố kị không chỉ đơn thuần là một
tính cách tiêu cực chung chung, mà là một tai họa có tính nội tại (interne,
intrinsèque) của người Việt nam, nó dẫn tới sự phá hoại và nỗi bất hạnh.
Để khỏi bị quy chụp là kẻ “bôi nhọ dân tộc” thêm một lần nữa, tôi xin
mời ba ông nghe lại (Nghe lại, bởi vì chuyện này có từ rất lâu, và được
truyền miệng một cách rộng rãi từ Bắc vào Nam.) một “tiếu lâm chính
trị khác”. Chuyện này, do chính người Việt Nam sáng tác, vào thời Mao
trạch Đông - người cầm lái vĩ đại của Trung quốc còn đang sống và cầm
quyền.
MỞ CỬA THIÊN ĐƯỜNG
Chuyện rằng : Trên
chốn thần tiên suốt ngày hoa thơm bướm lượn,chim kêu vượn hót, các tiên
nữ hát khúc Nghê thường, Ngọc Hoàng cùng các vị thần mải mê vui chơi,
hưởng thụ chỉ mỗi thần Gù là đăm chiêu vén mây nhìn xuống trần gian.
Một bữa, Ngọc Hoàng lên tiếng hỏi :
-- Thần Gù, vì sao nhà ngươi luôn luôn đăm chiêu rầu rĩ ?...Tuy
trước khi được bước vào cõi Tiên, ngươi đã phạm vào một tội không thể
tha thứ nên ta buộc phải bắt ngươi mang cái lưng gù vĩnh viễn. Nhưng
bù lại,ta đã cho ngươi gương mặt đẹp nhất trong các thần và ngươi được
hưởng một sự thông tuệ miên viễn hơn nhiều vị thần khác.Cớ chi ngươi
không chịu vui chơi?...
Thần Gù đáp :
-- Muôn tâu Ngọc Hoàng,chính là vì luôn biết ơn Ngài, luôn là người
lính trung thành bảo vệ cõi Tiên, nên thần buộc phải lo âu, rầu rĩ.
-- Có thứ giặc nào dám xâm phạm cõi trời của chúng ta. Ngươi mê
ngủ chăng ?...
-- Muôn tâu Ngọc Hoàng, thần không mê ngủ. Không thứ giặc nào dám
xâm phạm cõi trời, nhưng chính con người, loài vật Ngài tạo ra đang
đe doạ thiên đường của chúng ta.
-- Tại sao ?
-- Khi nặn ra con người, Ngài đã quên nhốt loài rắn và loài dơi nên
hai con vật này đã luồn vào tim con người, đã phủ cánh đen lên tóc họ,
vì thế con người trở nên độc ác. Thấy họ quá độc ác, Ngài liền sai chúng
thần đi giáo hoá bọn họ và hứa rằng khi họ cải hoá, ngài sẽ cho họ được
vào cõi Tiên … Từ đó tới nay đã bao nhiêu thời gian…
-- Đúng rồi… Đã lâu quá nên ta chẳng còn nhớ…
-- Đã mấy ngàn năm của hạ giới, loài người đã sinh sôi nẩy nở đến mức
giờ đây,nếu Ngài vén mây nhìn xuống, Ngài sẽ không thể tin ở mắt mình…
Điều đáng lo là loài người không quên lời Ngài đã hứa. Và bọn họ đang
tìm mọi cách để lên được thiên đường.
Nghe tới đó, chính thượng đế cũng tái mặt. Ngài biết thiên đường không
phải là nơi cư trú của tất thảy sinh linh và Ngài, cũng như quần thần
của Ngài, không thể ăn chung ở lộn với thứ sản phẩm do Ngài tạo ra giống
như người chăn cừu không nên ngủ giữa bầy cừu của họ. Ngọc Hoàng liền
bảo thần Gù :
-- Ta thật vô tâm khi để nỗi lo lắng cho mình ngươi gánh chịu. Giờ
ta giao cho ngươi cùng bốn mưu thần nữa lo việc giải thoát Thiên đường
khỏi mối hoạ này. Các ngươi hãy bàn tính cùng nhau. Một tuần nữa ta
sẽ triệu tập toàn thể Thiên đình nghe các ngươi trình tấu.
Một
tuần sau, có nghĩa là sau bốn trăm hai mươi năm của hạ giới, Ngọc Hoàng
thiết triều. Tất thảy quần thần đều tụ tập nghiêm chỉnh, thần nào cũng
lo xứ sở của mình bị bọn phàm tục xâm lấn.
Các mưu thần lên tiếng :
-- Muôn tâu Ngọc Hoàng,kế sách chưa được đầy đủ, vì thời gian ngắn,
không thể dò hết nông sâu tâm địa cũng như tập tục của giống người trên
khắp địa cầu. Giờ đây,chúng thần chỉ xin trình tấu những kế sách đã
được coi như chắc chắn.
-- Tính được đến đâu, các ngươi hãy trình cho ta đến đó. Không chỉ
riêng ta, mà cả triều thần đang chờ đợi lời giải của các ngươi.
-- Muôn tâu Ngọc Hoàng, đối phó đơn giản nhất là với bọn người phương
Tây, lũ này ham hưởng thụ, sống chìm đắm trong hoan lạc, vừa thích phiêu
lưu triền miên nơi trường tình,vừa ngại sinh nở và nuôi dạy trẻ. Vì
thế, thần cho chúng cuộc cách mạng tình dục lẫn căn bệnh si-đa.
-- Còn lục địa đen, ta thấy bọn chúng cũng ham dục tình lăm lắm…
-- Bẩm Ngọc Hoàng, như thế là Ngài vẫn còn nhớ đến từng chi tiết…Quả
là vậy, đám da đen cũng ham tình dục không kém gì những người anh em
mắt xanh mũi lõ của chúng nhưng về khoản sinh đẻ, chúng lại mắn hơn
loài sâu tằm. Thế nên ngoài bệnh si-đa, thần phải tặng thêm chúng món
bão châu chấu, hạn hán và dịch kiến. Loài kiến tàn phá mạnh hơn lửa
và nước. Trong khoảnh khắc, cơn dịch kiến có thể nghiến hết cả mười
dặm vuông.
-- Ngươi nói rằng dân châu Phi sinh đẻ lắm, nhưng ta lại nhớ rằng đám
người sinh đẻ vô hồi kì trận chính là bọn người thờ thánh Allah. Ông
này cho phép tín đồ của mình lấy tới bốn vợ…
-- Muôn tâu Ngọc Hoàng,hoàn toàn đúng như vậy. Dân đạo Hồi sinh đẻ nhiều
nhất hành tinh, bọn họ cũng mộ đạo hơn mọi thứ tín đồ khác.
-- Vậy ngươi đối phó cách nào ?...
-- Trước hết, thần chia tôn giáo của họ thành nhiều nhành riêng rẽ,
mỗi nhành thờ một á thánh riêng. Các đội quân của các á thánh này sẽ
choảng lẫn nhau. Sau nữa, các tín đồ của Allah không bao giờ có thể
sống hoà thuận lâu dài với các tôn giáo khác vì họ chỉ công nhận tôn
giáo của mình là chính thống, mọi tôn giáo khác đối với họ đều là ngoại
đạo và giết kẻ ngoại đạo được coi như chiến tích trong đạo Hổi. Thế
nên, sớm hay muộn tín đồ của các tôn giáo khác cũng tập hợp để chống
lại họ. Cuối cùng, khi những sự biến này đã xảy ra rồi mà vẫn còn quá
nhiều kẻ muốn lên cõi trời, chúng thần sẽ cho xây một Thiên đường giả
trên sa mạc Gô-bi và dời thánh tích La Mecque của họ đến đấy.
-- Diệu kế. Nhưng còn một bọn người nữa,cũng sinh đẻ như loài thỏ. Nếu
ta không nhớ nhầm,đó chính là dân châu Á?...
-- Dạ, quả là vậy. Nhưng dân châu Á là giống người khó hiểu. Chúng thần
đã tốn bao công sức nhưng vẫn chưa thể tìm được đầy đủ phương sách đối
phó, ngoại trừ dân Trung Quốc và dân Việt nam.Hai loại người này đều
có cá tính. Mưu kế của chúng thần dựa trên đặc tính dân tộc của chúng.
-- Đặc tính của dân Trung quốc là gì?...
-- Muôn tâu Ngọc Hoàng, đây là thứ dân tuân thủ Đức vua của họ một cách
mù quáng nhất trần gian. Gã vua này bảo họ nhổ lúa là lập tức cả nước
nhổ hết lúa, gã bảo họ đuổi chim sẻ là toàn dân ra đồng gõ thanh la,
não bạt đuổi chim sẻ, gã ra lệnh nấu thép là nông dân cả nước bỏ ruộng
đi xây lò nấu thép…Tóm lại, chúng thần chưa từng thấy những cảnh tượng
điên rồ như thế… Sau khi thực hiện những mệnh lệnh rồ dại, bọn dân này
không còn gì ăn, chết đói đầy đồng, kẻ ngắc ngoải bò đi gặm cỏ như ngựa
như cừu, vậy mà chúng vẫn ngoái đầu về phía triều đình, vái lậy …Cho
nên, đối với hạng người này, chúng ta chỉ cần sai khiến Đức vua của
họ là đủ. Thần sẽ phái nữ thần âm nhạc và nữ thần vĩnh hằng quyến rũ
gã vua này xuống địa ngục, khi gã đi chắc chắn toàn thể dân chúng lẫn
quần thần của gã sẽ đi theo, hệt như lũ chuột trong thành cổ Babylon
đi theo tiếng sáo thần và chết chìm dưới biển.
-- Còn dân Việt nam ?...
-- Dạ, bọn dân này lại có một đặc điểm khác. Với chúng, ta cứ việc mở
toang cửa thiên đường và ngồi uống rượu …
-- Ta chưa hiểu ý ngươi. Vì sao có thể khinh xuất như vậy ?...
-- Thưa Ngài, vì bọn dân này có lòng đố kị ghê gớm! Không kẻ nào chịu
nổi khi thấy người khác hơn mình. Cho nên, dẫu chúng ta có mở toang
cửa Thiên đường rốt cuộc cũng chẳng một người Việt nam nào lọt được
vào đây. Bọn chúng sẽ tự kéo chân nhau và rơi xuống, trước khi lên tới
tầng trời thứ bảy…
* * *
Thưa ông Hà sĩ Phu,
cổng thiên đường chưa mở ra đâu, đối với những người đang đấu tranh
cho nền dân chủ của đất nước. Ông Hoàng minh Chính từ sân bay Nội Bài
trở về bị 60 tên lưu manh giả danh thương binh đến khủng bố. Một ông
già 85 tuổi bị ngần ấy côn đồ chửi rủa, đánh đập, ném cà chua, mắm tôm.
Mặt ông ấy sưng vù hai tuần chưa xẹp. Con cháu ông ấy bị đánh, đá vào
hạ bộ, vào bụng đến ngất xỉu. Nhà ông ấy bị lưu manh và công an gỉa
lưu manh đập phá…Tóm lại, thiên đường chưa mở cửa đâu. Ấy là tôi chưa
nhắc ông rằng còn bao nhiêu tù nhân chính trị khác, vô thần cũng như
tôn giáo đang nằm trong ngục tối, trong đó có những trường hợp bị hoại
thư mà không được chạy chữa kịp thời như ông Nguyễn khắc Toàn…Trước
mặt những người đấu tranh cho nền dân chủ của Tổ quốc Việt nam đang
còn là ngục luyện tội nếu không là địa ngục. Cho nên, việc ông kéo chân
ông Hoàng minh Chính là quá sớm. CÒN QÚA SỚM, THƯA ÔNG !
Tuy nhiên, tôi cũng
nhìn thấy trong sự đổ vỡ này một điều hữu ích. Đó là bài học cho các
thế hệ đi sau. Sớm hay muộn, Việt nam cũng phải có một nền dân chủ.
Muốn có nó, trước hết phải chờ đợi sự phát triển “ý thức của con người
dân chủ” trong quần chúng. Người ta không thể xây dựng nền dân chủ với
những nông nô vừa được giải phóng, những thành viên của bộ tộc hay bộ
lạc, hoặc những nông dân tự do - những người mà giấc mơ Minh Chúa miên
viễn chế ngự tâm hồn. Nạn diệt chủng và nền dân chủ bệnh họan Rwanđa
là bằng cớ. Trong tiến trình dân chủ, một đội ngũ hùng hậu của các chiến
sĩ đấu tranh cho dân chủ là vận hạnh của dân tộc. Nhờ họ, đoạn đường
sẽ rút ngắn đi. Sẽ rút ngắn đi quãng thời gian tồn tại “chuyến tàu vét“,
mà trong đó,kẻ cầm quyền lợi dụng tối đa sự khiếp sợ lẫn sự thiếu hiểu
biết của nhân dân để cướp phá tài nguyên đất nước, để “sang tên“ tư
bản quốc gia thành vốn tư nhân, để thủ tiêu những ngân quỹ bí mật, để
chất chồng một cách lén lút trong bóng tối những món nợ khổng lồ lên
vai các thế hệ mai sau …Chính ở đó, chính ở nơi diễn ra cuộc cướp bóc
trắng trợn trong sự im lặng nhẫn nhục của dân chúng mà những người tiên
phong phải thực thi trách nhiệm lịch sử của mình, một trách nhiệm chỉ
có thể được giao phó bởi chính lương tri họ. Ngoại trừ “tinh thần vì
nghĩa”, ai ai cũng là con người bình thường theo nguyên nghĩa của nó
: “Con người là cây cầu giữa thánh thần và súc vật “. Mọi mưu
toan đẩy nó tới mút chót của hai đầu đều phải trả giá. Đứng ở vị trí
trung gian ấy, suốt đời con người phải tự vật lộn với những tham vọng
không lành mạnh, những bản năng hung tàn mà nó vẫn lưu giữ từ thuở xa
xưa, khi còn ăn thịt sống và còn xé xác đối thủ bằng răng nanh (vì chưa
sáng chế ra dao kiếm,thuốc nổ,thuốc độc hay nghề múa lưỡi). Một chân
lý cổ xưa như trái đất nhưng con người thường dễ quên là :”Trận
chiến đấu cam go nhất là trận chiến đấu với bản thân mình“. Cuộc
đổ vỡ giữa những người lớn tuổi trong nhóm Dân chủ cũng chỉ chứng minh
một sự kiện bình thường hằng xảy ra trên khắp hành tinh : Sự thất bại
của con người trong cuộc đấu với bản thân.
Nhưng bên kia sự
đổ nát là một chân trời khác ! Đó là niềm hy vọng của tôi. Có thể nó
hão huyền và quá mong manh ?...Nhưng dẫu sao,tôi cũng vẫn hy vọng. Bởi
ngoài tính đố kị, người Việt còn tính thích ứng.Từ bài học đau đớn này,
“rất có thể những anh em trẻ sẽ trưởng thành vượt bực, nếu họ
biết rút ra "những kiến thức nằm phía sau và nằm bên trên các dòng
chữ “, những học phí đắt hơn vàng, nếu họ biết cách xây dựng những nguyên
lý đạo đức tối thiểu trong liên kết và cạnh tranh …Bởi vì, trên khía
cạnh nào đấy, chính trị giống như thương trường, cạnh tranh là quy luật
sinh tồn của nó. Nhưng những tiêu chí hàng đầu để phân biệt xã hội văn
minh hay man rợ chính là ở phương pháp và phẩm chất của cuộc cạnh tranh.
Cuộc cạnh tranh bằng bạo lực hoàn toàn khác cuộc chiến thắng của đầu
phiếu. Một cuộc cạnh tranh lương thiện, ngay thẳng thì khác cuộc cạnh
tranh bất lương, bỉ ổi. Thời nào và ở đâu,loài người vẫn phải có những
đòi hỏi và những cam kết tối thiểu về đạo đức. Bởi vì khái niệm đạo
đức chỉ được khai sinh và tồn tại với loài người, dành riêng cho loài
người.
Không riêng sự cạnh tranh giữa các cá thể cùng một thiên hướng mà ngay
trong cuộc cạnh tranh giữa hai đảng đối nghịch, người ta cũng không
thể giành phần thắng bằng lối đánh bỉ ổi của bọn hạ lưu. Vì chiến lợi
phẩm bất lương nào cũng găm giấu những xác chết không thể tiêu tuỷ được
bên trong nó. Với thời gian, sự rữa nát sẽ bốc mùi. Ví dụ : Richard
Nixon và vụ Watergate. Ông Nixon đã là tổng thống của nước Mỹ trong
một thời gian quá ngắn so với thời gian mà ông ta đã, đang, và sẽ bị
nhân dân Mỹ kết tội là : "Vị tổng thống xấu xa, bỉ ổi nhất trong
các tổng thống Mỹ “, Và là : “Một trong những nỗi nhục nhã của lịch
sử dân tộc Mỹ.”
Thưa ba ông, tôi vốn không có ý định tranh cãi với các ông, nhưng bây
giờ, dù muốn hay không, tôi cũng đã bị dứt khỏi cuốn sách dang dở. Vậy,
tôi sẵn sàng. Chúc các ông sức khỏe.
DƯƠNG
THU HƯƠNG, Hà nội, ngày 17 tháng 12 năm 2005.
|
|
TRANH
LUẬN
CẦN DỰA TRÊN
TINH THẦN
ĐỐi THOẠI
(THƯ
NGỎ GỬI CÁC
THÂN HỮU)
Gần
đây, trong một số cuộc tranh luận, các bên tham gia tranh luận có đề cập
đến chúng tôi và những ý kiến được gán cho chúng tôi - hoặc với thiện
ý hoặc với ác ý. Mặc dù đã chủ trương không tham gia vào các cuộc tranh
luận như thế, nhưng để tránh sự hiểu lầm và những tác hại đã và có thể
sẽ còn xảy ra, chúng tôi buộc lòng phải công bố một số điểm liên quan
đến lập trường của chúng tôi như sau :
1) Tranh luận trước hết phải bảo đảm tính
trung thực, vì vậy nguyên tắc đầu tiên là phải dựa trên những điều
có thật và chính xác.
- Đối với những người cầm bút, chỉ những
ý kiến đã được viết thành văn bản công khai mới có thể được coi là ý kiến
chính thức. Đã có tình trạng người này đem một câu nói trong lúc uống
rượu, hay lấy một lời nhắn tin trao đổi qua điện thoại đưa vào văn bản,
rồi nghiễm nhiên xem đó như ý kiến chính thức của người khác để làm hậu
thuẫn cho mình. Đó là trường hợp một vài câu nói của Bùi Minh Quốc mà
ông Hoàng Tiến đã sử dụng, hoặc một vài ý kiến của Hà Sĩ Phu mà ông Thanh
Giang đã sử dụng. Nghiêm trọng hơn, người “trích dẫn” lại còn tô vẽ thêm
để nhấn mạnh theo ý đồ của mình (chắc hẳn mấy chữ “quá thô tục và
vô văn hoá” mà ông Thanh Giang thêm vào ý của Hà Sĩ Phu đã khiến
bà Dương Thu Hương nổi giận). Về một bài ký tên Hùng Phong, Hà Sĩ Phu
đã thận trọng khuyến cáo rằng cần thẩm tra lại vì chưa thể xác nhận là
của ai; nhưng lại được “diễn giải” rằng “Hà Sỹ Phu từ Đà Lạt đã Email
bài viết đó cho ông Giang và cho biết của Hoàng Tiến gửi”. Cách thông
tin thiếu thận trọng ấy cũng nên tránh vì rất dễ gây hiểu lầm, làm cho
tình hình càng thêm phức tạp.
Qua trao đổi trực tiếp chúng tôi mới biết
chúng tôi bị “đánh” vì bị nghi là ủng hộ ông Thanh Giang, trong khi ông
Thanh Giang trước đây lại rất lấy làm buồn vì hình như chúng tôi thuộc
phía ông Hoàng Tiến! Thực ra chúng tôi chỉ là người đứng giữa muốn có
sự công bằng giữa các bạn bè và mong cứu vãn sự đoàn kết..
Còn nhớ trước đây nhiều vị đã tẩy chay
Nguyễn Khắc Toàn, vì “biết đích xác Toàn là người của công an”.
Bây giờ Khắc Toàn đang chịu cái án oan 12 năm, nặng nhất trong các anh
em dân chủ, thì những vị ấy nghĩ sao? Khổ thân Khắc Toàn bị oan cả từ
hai phía! Cái cách buông ra những lời phán quyết chắc như đinh đóng cột
mà không thèm đưa ra bất cứ một dẫn chứng đáng tin cậy nào hiện nay đang
được lặp lại. Sự cảnh giác là đúng nhưng nếu mục tiêu cụ thể không trúng
thì hậu quả thật khó lường!
- Ngay cả những ý kiến đã được trình bày
bằng văn bản cũng đòi hỏi người sử dụng phải thận trọng, nếu không sẽ
dùng phải tư liệu giả, vì với kỹ thuật thông tin hiện nay, việc sửa chữa,
thêm thắt, thậm chí lấy bài của người này đề tên người khác là việc thực
hiện không mấy khó khăn. Kẻ xấu có thể dùng cách này để kích động những
người nông nổi, nhẹ dạ nhằm gây chia rẽ, ly gián giữa những người cùng
đấu tranh cho dân chủ nhưng thiếu lòng tin đối với nhau.
Đặc biệt nghiêm trọng là trường hợp bà
Dương Thu Hương đã gán ghép cho chúng tôi những ý kiến không phải của
chúng tôi, ví như trong một bài gần đây, bà viết rằng Hà Sĩ Phu đã “trích
dẫn những lời lẽ đầy bay bướm của một ông văn sĩ hay thi sĩ nào đó rằng
: “Đi là chết… ”. Sự gán ghép này nhằm để kết tội
Hà Sĩ Phu “xui ” cụ Hoàng Minh Chính chết, để
ví Hà Sĩ Phu với Lý Thông, để phỉ báng Hà Sĩ
Phu “là ác là hèn là tham”, là “đố
kỵ”,”ghen tị” với vai trò của cụ Chính ! Dựa trên một cơ
sở hoàn toàn sai, hoàn toàn không có thật, mà thản nhiên quy kết những
điều nặng nề tệ hại chết người, thì thật chẳng còn gì để nói. (Nếu chúng
tôi không lầm thì những dòng trên đây là do bà Dương Thu Hương đã “trích
nhầm” từ một lá thư của Ninh Bình!) (*)
2) Bây giờ đến chuyện Ninh Bình. Từ giữa tháng 9. 2005 cho đến gần đây,
có một loạt bài viết dưới dạng thư ngỏ ký tên Bình Minh Ninh Bình được
phổ biến khá rộng rãi trong và ngoài nước. Không rõ vì lý do gì, đã xuất
hiện những lời đồn đại gán ghép những bài viết đó cho chúng tôi. Nay chúng
tôi xin công bố chính thức : Bình Minh Ninh Bình không phải là bất cứ
người nào trong chúng tôi, cũng không có liên quan gì đến chúng tôi. Bất
cứ ai, nếu không có thành kiến, không có ác ý, với một chút bình tâm suy
nghĩ, đều dễ dàng nhận ra trong những bài viết đó, bên cạnh những ý kiến
gần gũi còn có những khác biệt căn bản với quan điểm của chúng tôi, đặc
biệt là thái độ đối với cụ Hoàng Minh Chính. Cách nhìn nhận của chúng
tôi đối với trường hợp cụ Chính, đã được thể hiện trong một số thư và
bài viết của Hà Sĩ Phu, khác rất xa quan điểm của Bình Minh Ninh Bình.
Mặt khác, từ xưa đến nay, mỗi người trong chúng tôi đều thể hiện một lập
trường nhất quán, công khai, rõ ràng, không bao giờ là lập trường nước
đôi, hai mặt, lá mặt lá trái. Trong chuyến thăm Hoa Kỳ, những điều cụ
Chính phát biểu phù hợp các quan điểm vốn có của cụ tuy có đôi chỗ chưa
thật chặt chẽ nhưng về căn bản là tốt. Chỉ một
vài điều khác lạ phát sinh trong chuyến đi (như việc thành lập tổ chức
và tự coi là người lãnh đạo phong trào , rồi tự ý cử người đại diện này,
người đại diện khác mà không có sự bàn bạc thống nhất, hay phát ngôn về
phương pháp “lật đổ”…) đều là sai lầm có tính nguyên tắc hoặc là sơ hở
nguy hiểm. Trong thực tế, mặc dù cụ Chính đã phải tự điều chỉnh đi điều
chỉnh lại nhiều lần, những thiếu sót ấy đã gây phiền phức không nhỏ cho
cụ Chính và cho cả phong trào, mà hậu quả cho đến nay chưa hẳn đã hoàn
toàn chấm dứt. Theo chúng tôi, cụ Chính chỉ chịu trách nhiệm một phần
về những sai lầm ấy, còn phần lớn là do những người khác. Nhưng dẫu có
thế nào, lòng quý trọng cụ Chính và tiếng nói bênh vực của chúng tôi đối
với cụ là trước sau không thay đổi, chỉ những ai nông nổi hoặc có suy
nghĩ một chiều cứng nhắc mới có thể hiểu là chúng tôi ganh ghét, đố kỵ.
Do đó, bất cứ một sự gán ghép nào nhằm
làm lẫn lộn giữa Bình Minh Ninh Bình với chúng tôi đều không thể hiện
thiện ý mà chỉ nhằm mục đích gây chia rẽ, tị hiềm giữa những người cùng
chung lưng đấu cật trong sự nghiệp dân chủ hoá đất nước. Những việc làm
này không có lợi cho phong trào dân chủ nói riêng, càng không có lợi cho
sự phát triển đi lên của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3) Chúng tôi không đồng ý với quan niệm
cho rằng dân chủ có nghĩa là bất cứ vấn đề gì cũng nên phơi bày
một cách công khai trước mọi người, hoặc mọi cuộc tranh luận đều có giá
trị như nhau.
Quan niệm của chúng tôi về sự tranh luận
đã được Tiêu Dao Bảo Cự thể hiện phần nào trong các bài viết đã đăng trên
các diễn đàn Talawas và Đàn Chim Việt. Nay chúng tôi xin phép bổ sung
thêm một số điểm để làm rõ vấn đề :
Tranh luận đòi hỏi mỗi bên tham gia phải
tôn trọng các nguyên tắc của dân chủ, tôn trọng lẫn nhau; phải công bằng,
không thành kiến, và nhất là phải sử dụng ngôn ngữ của đối
thoại. Những cuộc “tranh luận” dựa trên ngôn
ngữ của độc thoại, chỉ nhằm giành phần thắng về cho mình,
đè bẹp đối thủ bằng mọi giá (kể cả bằng những thủ đoạn thiếu lương thiện);
“tranh luận” mà người tham gia không chịu lắng nghe ý kiến người khác,
không cho phép người khác phản biện, tìm cách ghép tội cho người khác
không căn cứ vào những bằng chứng xác thực mà chỉ dựa vào những suy đoán
chủ quan; những cuộc tranh luận như thế rốt cuộc chỉ dẫn đến bế tắc, gây
nghi kỵ, gieo rắc hận thù vào lòng người. Chúng tôi tự dành cho mình
quyền không tham gia vào bất cứ cuộc “tranh luận” nào
nếu xét thấy việc tranh luận đó không dẫn đến kết quả tích cực mà chỉ
có tác dụng gây chia rẽ, phá hoại phong trào dân chủ.
Ngôn ngữ của đối thoại không bao giờ là
ngôn ngữ của dao búa hay của quyền lực. Nếu chúng ta đã từng là nạn nhân
của sự vu khống, chúng ta đừng nên vu khống lẫn nhau. Nếu chúng ta đã
từng là nạn nhân của việc kết tội vô căn cứ mà không được phép tự bào
chữa hay bào chữa một cách công bằng, thì chúng ta cũng không có quyền
chụp mũ lẫn nhau. Mỗi tập thể hay mỗi con người bao giờ cũng mang trong
mình những mâu thuẫn, có sáng có tối, có đúng có sai, có đen có trắng,
và những yếu tố ấy không ngừng biến động. Kẻ độc tài xử lý quan hệ phức
tạp ấy theo nguyên tắc “giết lầm hơn bỏ sót”, còn người dân chủ
, do cần liên kết, cần bao dung, cần tiến về cái Thiện phía trước nên
bao giờ cũng đinh ninh một tấm lòng “thà bỏ sót chứ nhất định không
được hại lầm nhau”. Đó chính là sự khác biệt căn bản giữa những người
yêu dân chủ và những người đã ít nhiều nhiễm phải thói độc tài.
Bạn bè khắp nơi đang rất lo lắng, bởi
dễ dàng nhận thấy kiểu “tranh luận” giữa một vài anh chị em như đang diễn
ra chỉ đem lại vui mừng cho những kẻ chống dân chủ và làm buồn lòng những
ai thiết tha với việc dân chủ hóa đất nước. Một lần nữa, chúng tôi mong
mỏi tất cả những người Việt có lương tri, yêu nước, yêu dân chủ ở trong
và ngoài nước hãy cùng nhau góp phần chấm dứt những cuộc tranh cãi vô
bổ như thế. Chúng ta đã từng chịu đựng biết bao đau thương ly tán do chiến
tranh và ý thức hệ, vậy chúng ta hãy cố gắng làm gương tốt cho các thế
hệ kế tiếp bằng cách góp phần xây dựng một môi trường văn hoá dân chủ,
bình đẳng, công bằng với mọi người, không phân biệt lập trường chính trị,
tín ngưỡng tôn giáo, hay nguồn gốc sắc tộc.
Dân chủ hóa đất nước là một sự nghiệp
đấu tranh chẳng những lâu dài mà còn phức tạp. Hiện nay chúng ta đang
ở giai đoạn mỗi người nói lên tiếng nói lương tri của riêng mình. Các
tiếng nói ấy ngày càng nhiều, và do sự “đồng thanh tương ứng, đồng khí
tương cầu” mà tự nhiên kết lại ngày càng rộng rãi hơn và được gọi chung
là “phong trào dân chủ”, chứ chưa phải là một tổ chức gì cả.
Vậy mà những dị biệt về phương pháp và động cơ, nhất là tính cơ hội, cũng
đã xuất hiện.
Chúng tôi mong muốn các diễn đàn dân chủ
ngày càng vững vàng trước các diễn biến phức tạp ấy, chủ động dành
ưu tiên cho những cuộc trao đổi ý kiến mang tính xây dựng
nhằm góp sức tìm ra và vun đắp một con đường hợp lý nhất, khả thi nhất
đưa đất nước mình vào nền văn minh dân chủ pháp trị và phát triển thịnh
vượng. Con đường tốt đẹp ấy chỉ có thể hình thành từ con tim và khối óc
của hết thảy mọi người kết hợp lại trên tinh thần đối thoại. Con đường
ấy không có chỗ cho những tính toán cá nhân, cho những cách làm tùy tiện,
bè phái, gia trưởng, áp đặt, độc đoán, phi dân chủ, mà chỉ có chỗ cho
những ai thật sự yêu nước, yêu dân chủ, biết tôn trọng và lắng nghe nhau.
Đà
Lạt những ngày cuối năm 2005
- Bùi Minh Quốc
- Hà Sĩ Phu
- Mai Thái Lĩnh
- Tiêu Dao Bảo Cự
---------------
(*) Xin xem thư của Ninh Bình ngày 21/11/2005 , trong
đó Ninh Bình trích dẫn bài “Lại một chiến sĩ ra đi không có ngày trở
lại” của ký giả Hồ văn Đồng ở Washington DC.
|
|
|