|
B Ì N H L U Ậ N
Hồi nhỏ tôi rất thích câu chuyện cổ tích Tấm Cám: cô Tấm xinh đẹp, thảo hiền nhưng luôn bị mẹ con nhà Cám ghen ghét tìm cách hãm hại. Thế rồi Tấm bị chết đi, hóa thành chim vàng anh, thành cây xoan đào, thành cái khung cửi, và cuối cùng Tấm từ quả thị chui ra giúp bà cụ phúc hậu kia mọi việc nhà. Một ngày nọ, nhân dừng chân ở quán nước ven đường, tình cờ nhà vua trông thấy những miếng trầu têm cánh phượng rất khéo, giống hệt như của vợ mình têm ngày nào. Vua bèn ngỏ ý với bà cụ muốn gặp người têm trầu, Tấm bước ra, vua vô cùng sửng sốt và mừng rỡ được gặp lại vợ mình, lại còn xinh đẹp hơn xưa. Vua cảm ơn bà cụ và xin được rước Tấm về cung. Từ đó hai người sống bên nhau hạnh phúc đến trọn đời - người ở hiền cuối cùng rồi cũng gặp lành. Còn mẹ con nhà Cám - những kẻ gieo gió đã gặt bão, tội ác đã bị trừng phạt đích đáng. Câu chuyện kết thúc thật "có hậu". Nhưng khi lớn lên, xem xét lại câu chuyện dưới một cách nhìn khác, tôi mới giật mình nhận ra rằng : bên cạnh tính thảo hiền thì cô Tấm cũng có tính ác độc, vì nếu hoàn toàn hiền cô không thể khuyên Cám: "nếu muốn da trắng em chỉ việc đào một cái hố thật sâu rồi ngồi xuống đó.", Cám tưởng thật nghe lời, đoạn Tấm sai người đem nước sôi dội xuống làm Cám chết ngay tức khắc. (có người còn kể là tự tay Tấm dội !) Vẫn chưa hết: sau đó Tấm lấy xác Cám rồi làm mắm gửi về cho dì ghẻ! (trong những sách xuất bản gần đây, chi tiết này đã được bỏ đi), mẹ Cám không biết vừa ăn vừa khen ngon. Ðến khi ăn hết nhìn xuống đáy hũ thấy đầu lâu con gái mình, mụ sợ quá rú lên một tiếng rồi ngã vật ra đất chết. Thế là chỉ vì quá căm phẫn trước những việc làm thất đức của mẹ con nhà Cám mà các cụ ta ngày xưa đã vô tình đẩy cô Tấm vốn xinh đẹp, thảo hiền là vậy vào vòng tội lỗi. Ðã có vua là phải có pháp đình rồi thì tại sao không làm theo phéùp nước? Nếu ai cũng đều làm như vậy thì xã hội sẽ đi về đâu? Tương tự trong truyền thuyết Chuyện Ðẻ Trăm Trứng ta cũng thấy: tại sao ông Lạc Long Quân lại bàn với bà Âu Cơ chia đàn con của họ ra thành hai nhóm 50/50 để người dẫn lên núi, người dẫn xuống biển? Sao ông bà không cùng nhau ở lại mà làm ăn sinh sống và nuôi dạy đàn con của mình trưởng thành? vì ông bà đã… ly dị đâu! Sau này " đứa nào" muốn đi mở mang bờ cõi thì tùy "chúng nó". Mới có … 100 mặt con thì làm gì mà đã sợ thiếu đất canh tác ! v.v… Cái lý do ông đưa ra rằng bà thuộc giống Tiên, ông thuộc giống Rồng nên không thể ăn ở với nhau lâu được và nay thì ông phải xuống thủy cung để ở với mẹ! tôi cho rằng không có sức thuyết phục, vì điều đó ông đã biết từ trước khi cưới rồi cơ mà! (thà rằng ông cứ nói là 2 người tính tình không hợp nhau thì còn khả dỹ!). Thế là cũng chỉ vì muốn chứng minh rằng dân tộc Việt Nam ta là cùng một mẹ đẻ ra, là "đồng bào" của nhau mà các cụ ta ngày xưa lại nỡ chia rẽ một gia đình đang sống với nhau hạnh phúc là vậy. Hơn nữa giá như các cụ kể thêm là có một cặp "Long Quân - Âu Cơ" khác cùng thời, cũng đẻ ra 100 cô gái thì vấn đề sẽ… đồng bộ hơn! Quả thật tôi cứ thắc mắc mãi là các vua Hùng - những người con trai của ông, bà khi lớn lên đã kén vợ ở đâu! Không, tôi hoàn toàn không có ý gì báng bổ đến tổ tiên ta. Thật tình tôi cũng rất thích câu chuyện này, tuy nó chỉ là truyền thuyết nhưng nó như một bức thông điệp của ông cha ta từ ngàn xưa, muốn nhắn gửi tới Ðàn Chim Việt hôm nay: dù ai đang ở đâu, đi đâu và làm gì thì chúng ta đều là anh em cùng một giống nòi. Vì vậy phải luôn luôn biết đoàn kết, thương yêu và đùm bọc lẫn nhau. Từ hai câu chuyện trên có thể giúp ta những gợi ý sau: a - Trong cùng một vấn đề thường có tính hai mặt tương phản nhau. Nếu chỉ thấy được mặt này mà không thấy được mặt kia hoặc ngược lại thì cách giải quyết nó sẽ không đồng bộ. Có thể lúc này ta thấy nó ổn nhưng khi khác, hoàn cảnh cũng đã khác đi lại thấy nó rất không ổn, có khi còn sai hoàn toàn. Lúc ấy phải dứt khoát đoạn tuyệt với nó để cái mới ra đời, thay thế và phát triển theo quy luật. b - Cuộc sống là rất đa dạng và phong phú, nên trong cùng một vấn đề mỗi người khác nhau thường có cách nhìn nhận và giải quyết nó cũng khác nhau. Nếu đấy là những vấn đề riêng thì quyết định cuối cùng thuộc về những cá nhân đó. Nhưng nếu đấy là những vấn đề chung, liên quan đến nhiều người thì phải tuân theo nguyên tắc: thiểu số phục tùng đa số, tức số ít phải chấp thuận quyết định của số nhiều. Nói như vậy không có nghĩa là số còn lại bị bỏ rơi, một quyết định tốt nhất phải là sự tổng hợp cao nhất mọi ý kiến, dù là nhỏ. Một điểm quan trọng nữa là những người liên quan phải có được những thông tin trung thực và đầy đủ trước khi họ ra quyết định cuối cùng. c - Cuộc sống càng hiện đại thì yêu cầu xem xét lại những vấn đề của ngày hôm qua xem chúng có còn phù hợp với hôm nay hay không, lại càng phải được đặt ra một cách cấp bách và nghiêm túc. Từ đó sẽ tìm ra những phương cách giải quyết chúng sao cho thích hợp với hiện tại. Từ
những gợi ý trên trong bài viết này tôi xin được trình bày 5 vấn đề
sau đây: Tôi hiểu rằng đây là những vấn đề rất rộng và phức tạp, đã có nhiều người viết và nói về nó. Nhưng điều đó chẳng những không ngăn cản tôi nói lên ý kiến riêng của mình, mà ngược lại, nó là những nguồn tư liệu phong phú, nguồn động viên tinh thần rất lớn đối với tôi. Với hy vọng rằng trong số những điều viết ra, nếu có điều nào đó có ích cho đất nước mình, thì đó chính là niềm khích lệ lớn đối với tôi rồi. Viết về quê hương Việt Nam nhà thơ Nguyễn Ðình Thi đã có bài sau đây:
Có lẽ không người Việt Nam nào, khi đọc bài thơ này lại không thấy được một phần máu thịt của mình ở trong đó. Cái mảnh đất hình chữ S nằm bên bờ Thái Bình Dương ấy là Tổ Quốc chung của mọi người con đất Việt, dù họ đang sống ở trong hay ngoài nước . Tôi không có khả năng làm thơ để viết về đất nước mình, nhưng cũng như bao người Việt Nam khác, tôi yêu đất nước tôi và đó chính là động cơ duy nhất để tôi viết bài này, trong đó có cả câu "súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa" cũng cần phải được nhìn nhận lại. Và bây giờ, xin mời quý vị và các bạn hãy cùng tôi lần lượt đi qua 5 phần trên. 1
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ 20 vừa qua (1917 - 1991). - Năm 1945 trên đường tiến vào Berlin, hồng quân Liên Xô đã giúp hàng loạt nước Ðông Âu thoát khỏi ách phát xít. Sau đó các nước này ra nhập vào hệ thống xã hội chủ nghĩa gọi tắt là phe XHCN, do Liên Xô đứng đầu. Sau có thêm bốn nước nữa là: Trung Quốc (1949), Cộng hòa DCND Triều Tiên (Bắc Hàn - 1953), Cu Ba (1959) và Việt Nam (miền Bắc 1954, cả nước 1975). Ðưa tổng số các nước trong toàn hệ thống lên 13 nước. Hệ thống ấy tồn tại đến năm 1991 thì tan rã, do sự sụp đổ của các nước Ðông Âu và Liên Xô, đến nay chỉ còn lại bốn nước sau nói trên. Có 3 đặc điểm lớn trong hệ thống này là: a) Hầu hết đều có điểm xuất phát thấp: khá nhất là các nước Ðông Âu, sau đó là Liên Xô và thấp nhất là bốn nước còn lại. (cụ thể là: nền công nghiệp chưa phát triển,trình độ dân trí và dân chủ còn thấp, người dân còn nghèo, ... đặc biệt hai nước Trung Quốc và Việt Nam còn bị ảnh hưởng rất nặng nề bởi thuyết Khổng, Mạnh và người dân vẫn còn rất tin vào số mệnh.) b) Ða số đều ra đời sau các cuộc chiến tranh hoặc nội chiến, mà ở đó các ÐCS lên nắm chính quyền. c) Vai trò quyết định của Liên Xô: nếu không có Liên Xô thì chắc chắn không thể có hệ thống XHCN trong thế kỷ 20 vừa qua. Như chúng ta đã biết: nhân tố quyết định cho thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga là vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản Nga, ÐCS Nga lại bắt nguồn từ phong trào cộng sản quốc tế. Nó xuất hiện từ nửa sau thế kỷ 19 ở Tây Âu bởi chủ nghĩa Mác, còn được gọi là Chủ nghĩa cộng sản (Karl Marx 1818 - 1883). Chủ nghĩa Mác lại được hình thành bởi học thuyết của ông. Vì vậy muốn đi tìm nguyên nhân hình thành cũng như tan rã của phong trào cộng sản quốc tế nói chung, cũng như của hệ thống XHCN nói riêng trong thế kỷ 20 vừa qua, chính là việc đi tìm cơ sở hình thành nên học thuyết Mác Có thể tóm tắt phần cốt lõi đã hình thành nên học thuyết ấy như sau : Mác cho rằng xã hội tư bản sở dĩ có bóc lôït là do có sự tư hữu về tư liệu sản xuất. Hễ tư hữu càng nhiều thì bất công càng lắm, khi mâu thuẫn do nỗi bất công ấy gây ra lên tới đỉnh cao, thì chỉ có cách giải quyết duy nhất là thủ tiêu nguyên nhân sinh ra nó. Tức là phải "xóa tư hữu" thông qua một cuộc Cách mạng vô sản, bằng con đường bạo lực . Trong Tuyên Ngôn Ðảng Cộng Sản, Mác viết chung với Ăng-Ghen (F.Engels 1820 -1895) năm 1848 có đoạn : "Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất là: xóa bỏ chế độ tư hữu". Và ông tiếp: lực lượng nòng cốt của cuộc cách mạng vô sản là giai cấp công nhân, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản (ÐCS). Khi cách mạng thành công rồi thì một nhà nước vô sản sẽ ra đời để xây dựng một chế độ mới, dựa trên cơ sở "công hữu". Ðây là chế độ công bằng và dân chủ nhất cho tất cả mọi người, chưa hề có trong lịch sử loài người. Vì nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với mọi hình thức bóc lột. Cuối cùng Mác kêu gọi: "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!" và một khi cách mạng vô sản giành được toàn thắng thì thế giới sẽ đại đồng. Mùa xuân của nhân loại sẽ đến ngay trên trái đất này chứ chẳng phải đi tìm kiếm ở đâu xa. Lúc ấy vai trò lãnh đạo của các ÐCS, vai trò quản lý của các nhà nước vô sản sẽ không còn cần thiết nữa, nó sẽ tự triệt tiêu .(!) Quả thật nếu được như vậy thì ai không muốn, chẳng thế mà trong suốt một thế kỷ rưỡi qua đã có biết bao nhiêu người say mê nó. Người vô sản đã đành, rất nhiều người hữu sản cũng quyết dấn thân, bởi vì họ nghĩ tới muôn đời con cháu mai sau. Thế nhưng có điều là ngay ở điểm xuất phát của học thuyết này : "Sở dỹ có bóc lột là do có sự tư hữu" đã có sự bất ổn lớn. Vì để chứng minh nó, Mác đã khảo sát quá trình mà ông gọi là "Tái sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa". Ở đó ông chia nó thành hai quá trình nhỏ hơn là sản xuất và lưu thông hàng hóa, và ông nhận xét : Trong lưu thông không tạo ra giá trị cho hàng hóa, dù là trao đổi ngang giá hay không ngang giá. Chỉ có trong quá trình sản xuất mới tạo ra được giá trị cho hàng hóa, và cũng chỉ có duy nhất yếu tố người công nhân mới có khả năng tạo được giá trị mới, lớn hơn cái giá trị mà nhà tư bản đã thuê anh ta dưới hình thức tiền lương. Giá trị chênh lệch ấy gọi là giá trị thặng dư, mà người công nhân đã bị nhà tư bản bóc lột toàn bộ. Giả sử mọi lập luận của Mác dẫn tới nhận xét trên là đúng hết, thì điều quan trọng sau đây cũng đủ làm cho nó sai, nguyên nhân là trước đó ông đã tự đặt ra những giới hạn để khảo sát quá trình này. Ðó là : - Về không gian: chỉ ở một vài nước Tây Âu phát triển nhất lúc bấy giờ như Anh,Pháp, Ðức, Ý,... - Về đối tượng và lĩnh vực nghiên cứu: chủ yếu quan tâm đến mối quan hệ giữa nhà tư bản và người công nhân trong ngành công nghiệp cơ khí. -
Về thời gian nghiên cứu : chủ yếu là từ thập niên 40 đến 60 của thế
kỷ 19. - Không có các yếu tố xuất nhập khẩu như: XNK hàng hóa, lao động, công nghệ, tư bản (vốn), ... mà thời Mác cũng đã có. (ông đưa ra rất nhiều bảng biểu về nó nhưng chỉ để minh họa, chứ không đưa nó vào khảo sát như là một yếu tố của quá trình này.) - V.V… Những vùng đất khác trên thế giới, những ngành khác trong nền kinh tế, những thành phần khác trong xã hội như : các viên chức chính phủ (kể cả quân đội và cảnh sát), các nhà hoạt động chính trị, tư tưởng, tôn giáo, văn hóa, khoa học, văn nghệ sỹ, chủ đất, tiểu chủ, tiểu nông, bần cố nông, v.v ... được ông gọi chung là "các giai cấp trung gian", tuy có được ông nhắc đến nhưng rất không đầy đủ, thậm chí có những yếu tố gần như bỏ trống. Chẳng hạn như vùng đất châu Á ông rất xa lạ. Với một bài toán mà các dữ kiện vừøa thiếu hoặc nếu có lại bị giới hạn tới mức ấy, thì ngay cả vào thời Mác nó đã cho kết quả khác đi rồi. Và một khi kết quả khác đi thì cách giải quyết vấn đề cũng phải khác đi, như vậy mới là hợp lý. Hơn nữa, cứ giả sử nó đúng ở Tây Âu nhưng chắc gì nó đã đúng ở Ðông Âu, Liên Xô, Châu Á, Phi, Mỹ, Úc ?… (ta giả sử thôi, vì trong thực tế là không có một nước XHCN nào ở Tây Âu cả). Ðúng trong ngành công nghiệp cơ khí, nhưng còn các ngành khác, với các giai tầng khác trong xã hội thì sao? Những mâu thuẫn giải quyết thế nào? Ðúng trong nền kinh tế đóng, nhưng chắc gì đã đúng trong nền kinh tế mở, có xuất nhập khẩu? v.v… Rất tiếc là từ kết quả trên (A), còn được gọi là lý luận về giá trị thặng dư, Mác đã dùng nó làm cơ sở ban đầu để phát minh ra hàng loạt các kết quả khác sau đó (B). Rồi cuối cùng ông đã thừa thắng đẩy vấn đề tới tận "mùa xuân của nhân loại" như chúng ta đã biết. Nhưng có A thì mới có B, mà A đã sai rồi thì B làm sao đúng được? Chưa kể là trong những cái B ấy lại có những điểm vô lý của riêng chúng nữa: Ví dụ, Mác cho rằng đấu tranh giai cấp là động lực phát triển trong xã hội có giai cấp, (còn được gọi là lý luận về đấu tranh giai cấp). Nhưng cũng chính ông lại cho rằng: trong xã hội cộng sản nguyên thủy còn hoang sơ nên chưa có giai cấp, và trong xã hội Cộng sản chủ nghĩa tương lai thì không còn sự phân biệt giai cấp nữa. Vậy thì chúng lấy đâu ra động lực để phát triển? Ông cho rằng trong tương lai con người sẽ có ý thức xã hội rất cao, nó sẽ chiến thắng con người cá nhân, và đó chính là động lực cho sự phát triển xã hội. Nhưng liệu điều đó có đạt được hay không ? Tôi xin được trở lại vấn đề này ở những phần dưới. Rõ ràng Mác đã đẩy sự đấu tranh giai cấp lên ngôi đầu và ấn sự thi đua trí tuệ của con người xuống dưới một cách rất chủ quan. Chính sai lầm chết người này của ông đã gây ra biết bao đau thương, tang tóc cho nhân loại ở thế kỷ sau. Nói tóm lại từ một bài toán nhỏ, lại cho kết quả sai, Mác đã dùng nó làm cơ sở để xây dựng nên cả một học thuyết được cho là khoa học, nhằm giải quyết một bài toán xã hội cực lớn. Chẳng những cho một nước mà cho toàn thế giới, chẳng những cho một giai đoạn mà cho mãi mãi về sau, v.v ... Nếu chỉ xét riêng về mặt phương pháp luận không thôi, cũng thấy là Mác đã rất sai lầm từ chính tính "khái quát hóa" cao này rồi. Còn xét về nội dung thì ngày nay chỉ cần một người có trình độ quan sát và nghiên cứu trung bình cũng có khả năng chứng minh được là Mác sai. (dù góc độ tiếp cận và cách nhìn nhận của mỗi người khác nhau là khác nhau.). Ðơn giản là vì: khác với một bài báo chỉ là sự tập hợp những quan điểm của người viết thì nó có thể đúng ở chỗ này, sai ở chỗ kia (trừ của các ngành khoa học tự nhiên). Nhưng một khi đã gọi là học thuyết khoa học rồi, mà những điểm sai của nó lại toàn là những "hòn đá tảng" cả, thì nhất định nó phải là một học thuyết sai. Càng sống ở các nước phát triển, càng có điều kiện để nhận biết nó. Ðiều này giải thích vì sao tất cả các nước có nền kinh tế phát triển, không có nước nào đi vào con đường XHCN, mặc dù họ có phong trào cộng sản sớm nhất. Vì sao bốn nước XHCN còn sót lại đến nay đều là những nước có điểm xuất phát thấp nhất của hệ thống, và vì sao số lượng các nước trong phe chỉ dừng lại ở con số 13. Có chăng là thêm một vài nước nghèo nữa ở châu Phi, Mỹ la tinh, Trung Á, v.v... nhưng tên tuổi cũng thoắt ẩn, thoắt hiện rất khó xác định! Nói như vậy không có nghĩa là hễ ai chứng minh được Mác sai là thông minh hơn Mác, mà chính là bởi thời đại thông minh đã dạy họ. Theo tôi Mác vẫn xứng đáng là một trong những bộ óc xuất sắc của nhân loại trong 1000 năm qua, như một cuộc bình chọn gần đây đã xác định. Xong cũng như những nhà tư tưởng lớn khác, ông vừa vượt lên trên thời đại của mình, nhưng cũng bị chính thời đại ấy quy định. Ngay khi Mác còn sống, đã có nhiều người nhận ra những điểm sai trong học thuyết của ông, kể cả Ăng-Ghen người bạn và người đồng chí thân thiết nhất của Mác, mất sau ông 12 năm. Biểu hiện rõ nhất của việc nhận thức lại này là: chỉ 6 năm sau khi Mác mất thì Quốc Tế Vô Sản II đã được thành lập ở Paris - Pháp (1889), với chủ trương mềm hơn : giai cấp vô sản sẽ giành chính quyền bằng con đường đấu tranh nghị trường, bất bạo động. Ðảng xã hội Pháp, tiền thân của ÐCS Pháp sau này đã theo Quốc Tế II. Năm 1919 Lê Nin đã thành lập ra Quốc Tế III và "phục hồi" lại con đường dùng bạo lực để giành chính quyền cho phong trào cộng sản quốc tế. Từ những trình bày trên ta rút ra kết luận: cơ sở hình thành nên học thuyết của Mác là sai, vì vậy cơ sở hình thành nên hệ thống XHCN trong thế kỷ 20 vừa qua cũng là sai từ gốc. Thời Mác đã sai, thời nay lại càng sai. 1.2
- Sự tan rã : Xen kẽ trong thời kỳ trên cũng có những cuộc chiến tranh nóng cục bộ giữa hai phe như : chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam. Nhưng trong 3 năm 1989 - 1991, khi các nước Ðông Âu và Liên Xô tan rã thì giữa hai phe lại không hề có một cuộc chiến tranh nóng nào. Có người cho rằng chính vì những cuộc chạy đua vũ trang, chạy đua không gian,… kéo dài với quy mô lớn đã làm cho nền kinh tế của nhiều nước XHCN, nhất là của Liên Xô bị " hụt hơi" dẫn tới sự sụp đổ. Nhưng theo tôi nếu đã gọi là "cùng chạy đua" rồi thì "hơi" bên nào mà chẳng "hụt"! Những nguyên nhân thì có nhiều, kể cả sự "hụt hơi" trên, ngoài ra còn là vai trò quan trọng, có khi lại rất tế nhị của những nhân vật lớn lúc ấy như: đức giáo hoàng Giôn-Pôn II(John Paul II), các cựu tổng thống Mỹ R.Ri-Gân (Ronald Reagan), Gioóc-Bút (George Bush), cựu thủ tướng Tây Ðức Hen-mút-Côn (Helmut Kohl), cựu tổng bí thư ÐCS Liên Xô M.Goóc-ba-chốp (Mikhail Gorbachev) * (những dấu * trong bài viết này tôi xin được trở lại kỹ hơn trong những lần tới, khi có điều kiện). Nhưng cái chính vẫn phải là phải đi tìm những yếu kém từ bên trong của hệ thống này. Theo tôi có ba nguyên nhân lớn sau : a - Do triệt để sử dụng phương pháp bạo lực đã làm phân hóa sâu sắc và toàn diện trong nội bộ từng nước, và giữa các nước trong toàn hệ thống. b - Do chủ quan và phiến diện trong cách nhìn nhận về con người, nên Mác đã đưa ra luận điểm: hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là hệ tư tưởng tiên tiến nhất trong xã hội, và Ðảng cộng sản là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo đất nước. c - Do không tôn trọng các quy luật khách quan. Cụ thể là: a
- Do triệt để sử dụng phương pháp bạo lực: Với Mác : Bạo lực là bà đỡ của mọi cuộc cách mạng. Với Ăng-Ghen : Không có vũ khí phê phán nào có thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí . Với Lênin : Kẻ nào chỉ thừa nhận có đấu tranh giai cấp không thôi, thì kẻ đó vẫn chưa phải là người Mác - xít. Chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vô sản thì mới là người Mác - xít. Với Mao Trạch Ðông : Quyền lực chính trị nằm ở trên đầu nòng súng. hay: Súng đạn đẻ ra chính quyền. v.v… Thật ra sai lầm trên lúc đầu là do Mác, nhưng sau đó là do Lê Nin và những người cộng sản nắm quyền tiếp theo đã phạm, khi họ vấp phải những khó khăn trong thực tiễn, không như Mác hình dung ban đầu. Vì vậy nó đã được kéo dài lê thê từ trong chiến tranh sang luôn cả thời kỳ "Xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH" ở tất cả các nước trong phe. Nhìn vào thực tiễn ta thấy rất rõ điều này : a.1 - Sự phân hóa trong nội bộ từng nước : Từ năm 1917 đến nay, chỉ tính riêng giai đoạn xây dựng hòa bình thôi cũng đã đầy máu và nước mắt rồi. Ðầu tiên là ở Liên Xô, sau lan ra toàn hệ thống. (xem Báo Cáo Mật Của N.Khrushchev Về Tội Ác Của Stalin - N.Khơ-rút-xốp (1879 - 1953) - Website www.lmvntd.org, mục tài liệu / nhân vật.). Hàng chục, hàng trăm triệu người đã bị bắt bớ, đánh đập, hành hạ,... nhiều người trong số họ đã bị chết do đói, rét, khát, bệnh tật hoặc bị giết vì các tội danh như: phản cách mạng, chống đảng, chống CNXH, chống chính quyền nhân dân,... mà việc quy kết cho nhân dân những tội danh trên là rất tùy tiện và vô tội vạ. Nếu ai đó đã xem bộ phim "Ðể sống" (To Live) của đạo diễn nổi tiếng Trung Quốc Trương Nghệ Mưu, có nữ diễn viên Củng Lợi đóng sẽ thấy : để tồn tại hay không tồn tại, người dân Trung Quốc đã phải chịu đựng như thế nào trong suốt thời kỳ Mao Trạch Ðông cầm quyền (1949 - 1976). Sau này chính những người dân Trung Quốc đã tự hàn gắn cho nhau những vết thương của quá khứ, chứ không phải là Mao Trạch Ðông và những người lãnh đạo trong ÐCS Trung Quốc đã ủng hộ cuồng tín ông ta, mặc dù chính họ là những người đã gây ra những tội ác đó. Họ cho đến nay vẫn ăn qụyt nhân dân Trung Quốc những món nợ lớn đã vay từ những cuộc "Ðại nhảy vọt", "Ðại cách mạng văn hóa", vụ "Quảng trường Thiên An Môn" năm 1989, v.v... Ở Việt Nam cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ: các chiến dịch lớn nhỏ như Cải tạo hóa, Tập đoàn hóa, Hợp tác hóa, Quốc hữu hóa, Công tư hợp doanh hóa,... chẳng những đã không đoàn kết hóa được dân tộc, mà chỉ làm cho dân tộc phân hóa hơn. Nếu tính cả yếu tố chiến tranh nữa thì sự phân hóa này còn tăng lên nhiều lần. Nước mắt của nhân dân hết chảy xuôi, rồi lại chảy ngược, nhưng không hề làm cho cái ác dừng tay. Thế là sau bao nhiêu năm chiến tranh máu lửa, nhưng trên đất nước Việt Nam vẫn chưa "hiền như xưa", súng gươm vẫn được giữ lại để dùng vào những công việc khác với chống giặc ngoại xâm. Ðiều này thì bất cứ người Việt Nam nào cũng biết. Nó như những thanh gươm treo lơ lửng trên đầu họ, vô hình đấy nhưng cũng rất hữu hình đấy. Có lẽ nhiều người thuộc trường phái sùng bái bạo lực ở Việt Nam, cứ thắc mắc hoài là tại sao ngày xưa vua Lê Lợi lại hoàn kiếm sớm thế? Thắng quân Minh rồi thì cứ giữ nó lại mà sài cho ... quân mình ! (chắc là hồi ấy ông chưa được học tập và quán triệt Chủ nghĩa Mác - Lê Nin !). Trên đây là sự phân hóa trong nội bộ từng nước, nhưng giữa các nước trong hệ thống cũng có sự phân hóa nghiêm trọng. a.2 - Sự phân hóa giữa các nước trong hệ thống: Chỉ một thời gian ngắn sau khi ra nhập vào hệ thống, thì hầu hết các nước Ðông Âu đã muốn thoát ra khỏi sự khống chế của Liên Xô, vì các lý do sau : -
Phần lớn đều có điểm xuất phát trước chiến tranh cao hơn Liên Xô. Những sự kiện diễn ra ở Tiệp Khắc năm 1947, Ðông Ðức và Tiệp Khắc năm 1953, Hunggaria và Ba lan năm 1956,... đã chứng minh điều này. Nhưng điển hình nhất là sự kiện "Mùa xuân Praha" diễn ra tại Tiệp Khắc năm 1968 : Hàng trăm nghìn quân cùng hàng ngàn máy bay, xe tăng, đại bác,...thuộc khối quân sự Vác-Sa-Va (Warszawa) do Liên Xô đứng đầu (giai đoạn do L.Brezhnev làm tổng bí thư ), đã tiến vào nước này nhằm "tiễu trừ bọn phản cách mạng,tay sai của đế quốc Mỹ!", sau đó bắt đi nhiều UVTƯ đảng, bộ trưởng giải về Mátxcơva (Moscow). Bản thân tổng bí thư A.Dubcek và thủ tướng Tiệp lúc bấy giờ là Cernik cũng bị triệu sang Mátxcơva. Ðể rồi sau đó một đoàn đại biểu do chủ tịch nước Tiệp là Svoboda dẫn đầu đã bị ép phải ký một văn bản tại Mátxcơva, với hai thỏa thuận quan trọng : - Ngưng ngay công cuộc cải tổ, mà thực chất là muốn xây dựng một mô hình CNXH nhân bản hơn, nhằm thay thế cho mô hình CNXH kiểu trại lính có từ thời Stalin. - Chấp nhận một lực lượng quân sự Liên Xô gồm 75,000 quân "tạm" đóng tại đây. Lực lượng này ở lại Tiệp 23 năm, tới tháng 5/1991 trước khi Liên Xô tan rã (12/1991) mới rút về. Kể từ đó lý tưởng cộng sản hầu như đã mất hẳn trong lòng nhân dân Tiệp Khắc nói chung và những người cộng sản Tiệp chân chính nói riêng, họ coi đất nước họ đã bị quân đội nước ngoài chiếm đóng trái phép. Chính họ - những người cộng sản ấy, đã góp phần rất lớn cùng nhân dân giành được thắng lợi trong "Cuộc cách mạng nhung" vào 10 ngày cuối tháng 11/1989. Những cuộc biểu tình quy tụ nhiều chục ngàn người đã liên tiếp nổ ra tại khắp nơi trên đất Tiệp sau sự kiện trên. Ngay tại quảng trường chính của thủ đô Praha đã có hai sinh viên tự thiêu vào tháng 1 năm 1969, trong lúc đoàn người đang biểu tình. Và sự hy sinh của họ đã không uổng phí, bởi vì có "Mùa xuân Praha" thì 9 năm sau mới có "Hiến chương 77" của hàng trăm nhà trí thức và những đảng viên Cộng sản Tiệp tiến bộ. Nó như một Bản Tuyên Ngôn chung đòi dân chủ, làm rung chuyển cả khối XHCN. Ðể rồi từ đó mới có thắng lợi của "Cuộc cách mạng nhung" 12 năm sau. Rõ ràng giải pháp "cộng sản" cũng đã không giải quyết được vấn đề "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại !" như Mác kêu gọi. Mối bất hòa giữa hai nước đàn anh Liên Xô và Trung Quốc là rất sâu sắc, không thể hàn gắn được, và cũng đã có những cuộc xung đột vũ trang diễn ra tại biên giới Trung - Xô. Nó lớn tới mức mà không biết vô tình hay cố ý, CT Hồ Chí Minh trong di chúc của mình đã vội chia chủ nghĩa cộng sản ra thành hai : chủ nghĩa Mác - Lê Nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản ! Giải pháp ấy cũng không làm tan đi được đầu óc bá quyền nước lớn, muốn thôn tính nước nhỏ bằng bạo lực, có từ ngàn năm của các thế lực cầm quyền phương Bắc đối với dân tộc Việt Nam. Có ai ngờ rằng sau 30 năm với hai cuộc chiến tranh, thì dân tộc ta lại phải bước tiếp vào hai cuộc chiến tranh nữa, ở biên giới Tây - Nam và biên giới phía Bắc, mà nguyên nhân sâu xa đều do chính quyền Bắc Kinh gây ra. Máu xương của hàng trăm ngàn những người lính trẻ, những người dân Việt Nam vô tội lại phải đổ xuống. Mặc dầu họ - những người nay đã khoác áo cộng sản, từng nhiều lần tuyên bố: "Tình đoàn kết gắn bó giữa hai dân tộc là như môi với răng, môi hở thì răng lạnh". (có lẽ nên là như môi với… lưng thì tốt hơn!). Vì điều kiện địa lý, chúng ta không có cách lựa chọn nào khác hơn. Chúng ta luôn mong muốn cùng xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước, nhất là với nhân dân Trung Quốc - những người cũng đã chịu quá nhiều thương đau. Nhưng với lịch sử đã qua, với những gì vẫn đang tiếp tục cho chúng ta thấy bản chất bá quyền nước lớn của đầu óc đại Hán, là không hề thay đổi trong các giới cầm quyền ở Trung Quốc. Chẳng những là đối với Việt Nam, mà còn đối với các nước khác trong khu vực. Ðây là khó khăn nhưng cũng là thuận lợi để Việt Nam có thể thiết lập được những mối quan hệ bền vững với các nước này. Từ đó sẽ tạo ra những đối trọng đủ mạnh đối phó với họ. Chính sợi dây ràng buộc "cùng ý thức hệ" hiện nay mới là nguy hiểm nhất, nó làm cho thế giới và các nước trong khu vực nghi ngại chúng ta. Sợi dây ấy có thể đứt bất cứ lúc nào như nó đã từng bị đứt, và bên chịu thiệt thòi vẫn là dân tộc Việt Nam. (một khi đã biết được dã tâm muốn "đánh tráo nỏ thần" rồi mà vẫn cho phép họ được "ở rể", thì những kẻ có tội với dân tộc chính là những "An Dương Vương" thời nay !) b
- Do chủ quan và phiến diện trong cách nhìn nhận về con người nên
Mác đã đưa ra luận điểm : hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là hệ
tư tưởng tiên tiến nhất trong xã hội, và Ðảng cộng sản là lực lượng
chính trị duy nhất lãnh đạo đất nước. Lý thuyết thì đã là như thế, thực tế còn tệ hại hơn nhiều : đó là sự thống trị của một thiểu số cầm quyền trong ÐCS lên toàn bộ xã hội, kể cả các đảng viên thường cùng toàn bộ khối "liên minh công - nông", mà lúc này hầu hết đều đã thuộc giai cấp bị trị. Mác đặt trọn niềm tin của ông vào các ÐCS, vì ông cho rằng đó là "bộ phận ưu tú nhất của một giai cấp tiên tiến nhất trong xã hội "! Cứ cho là như vậy đi, nhưng thử hỏi có cái gì làm cho người ta đam mê bằng thứ quyền lực được tập trung ở mức độ cao, được kéo dài không kỳ hạn và còn là duy nhất ? Thực tế phe XHCN đã chứng minh rằng: không phải như Mác nói "Tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ nhân dân", mà chính quyền lực mới là "thuốc phiện" của nhiều người cộng sản cầm quyền. Có những người sau khi đã rời chức vụ rồi, nhưng cứ ra ngẩn vào ngơ, tinh thần bất an vì vẫn còn muốn "phục vụ cách mạng đến hơi thở cuối cùng"! Ðể rồi đã có người đã thấy vậy mà đưa ra nhận xét: "Cái đít con người ta cóù trí nhớ, nó nhớ cái ghế!". Sự đam mê ấy lại càng được cộng hưởng thêm khi nó được gắn với tiền, lúc này cũng lại được đem tập trung lại. Nếu như ăn, uống, ngủ, nghỉ người ta còn thấy có dấu hiệu của sự bão hòa thì nỗi đam mê quyền, tiền là không hề có dấu hiệu nào. Giả sử lúc đầu con người xã hội trong anh có thắng thế, thì cũng chỉ một thời gian sau nó cũng sẽ bị con người cá nhân trong anh nuốt chửng. Mọi cố gắng nhằm "chống chủ nghĩa cá nhân" trên quy mô toàn xã hội đều thất bại, trừ khi phần hồn lìa khỏi phần xác! Ðó là quy luật muôn đời, không trừ một đảng phái, giai cấp, tôn giáo hay dân tộc nào. Lịch sử nhân loại đã có rất nhiều ví dụ về nó. Vì vậy bài toán lợi - quyền mà Mác hy vọng có thể giải quyết được qua giải pháp "cộng sản" cũng hoàn toàn chủ quan và phiến diện. Nó đã bị chính những người cộng sản cầm quyền phá vỡ: một khi mà đá bóng là anh, thổi còi cũng lại là anh, thì nhân dân chỉ còn có "mỗi" một việc là cứ lầm lũi làm ra cờ, cúp, giải thưởng để anh luôn luôn được đứng trên bục cao nhất mà thôi. Thử hỏi những cô Tấm ngày nay có còn động lực để "vớt tép" nữa hay không, khi mà tép trong giỏ của mình đã bị kẻ khác lừa trút hết? Những người chăm chỉ, dễ tin người và lương thiện thì chỉ còn "một con cá Bống", còn những kẻ lười biếng, giảo hoạt và vô lương tâm thì lại được thưởng "yếm đào". Người ta thấy rõ sự bất công lớn giữa những người lao động trực tiếp làm ra của cải, vật chất cho xã hội, với hầu hết các quan chức lớn nhỏ trong các ÐCS. Cái kiểu "nấu cháo bằng rìu" này đã diễn ra thường trực, lâu dài và trên quy mô lớn trong toàn phe XHCN. Lê Nin đã từng có nhận xét : " Ngân hàng trong nền kinh tế TBCN là một tổ chức ăn bám bình phương". Nhưng ở các nước XHCN, thực tế đã cho thấy rằng: Có nhiều cá nhân, tổ chức mà mức độ ăn bám có số lũy thừa bậc cao hơn nhiều lần. Vấn đề là phải tạo ra một cơ chế kiểm tra, kiểm soát đầy uy lực của toàn xã hội lên các thế lực cầm quyền, chứ không phải là cứ "chốt" vấn đề từ trên như vậy, rồi đặt cho nhân dân một niềm tin tù mù rằng: trên ấy toàn là những "vì sao" thì ắt nó sẽ tỏa sáng! Theo tôi có lẽ Mác cũng có tính cả tin như có lần ông tâm sự với con gái của mình rằng đấy là đức tính mà ông dễ tha thứ nhất. c
- Do không tôn trọng các quy luật khách quan: Vì vậy những lợi thế của cơ chế này trong chiến tranh lại là những trở lực lớn trong xây dựng hòa bình. Biểu hiện cụ thể của nó là lối suy nghĩ cứng nhắc, một chiều dẫn tới cách làm việc độc đoán, duy ý chí và bất chấp quy luật. Hậu quả là những sản phẩm được làm ra thường là thiếu tính cạnh tranh trên thị trường thế giới, ngày càng mang tính toàn cầu hóa cao. Trong nền kinh tế XHCN, điều mà các nhà sản xuất quan tâm hơn cả là làm sao hoàn thành được kế hoạch nhà nước giao, chứ không phải là tính hiệu quả. Vì vậy nó cũng không cần để ý đến thị hiếu, sức mua của người tiêu dùng. Ví dụ ở Liên Xô trước đây người ta thường đúc luôn giá bán lẻ vào nhiều sản phẩm, chẳng hạn một bàn là giá 7 rúp (Rouble: đơn vị tiền tệ của Liên Xô), hay một quạt tai voi giá 14 rúp được bán ra vào giữa thập niên 60 thì đến giữa thập niên 70 nó vẫn giữ nguyên giá bán như vậy. (điều này thì nhiều anh chị em ta ở Liên Xô nắm khá chắc !). Về mặt hình thức ta thấy được tính "ổn định" của giá cả, nhưng về mặt bản chất thì đó là sự vi phạm nghiêm trọng các quy luật kinh tế khách quan. Tình hình cũng tương tự ở các nước khác trong phe, như ở Trung Quốc với chiếc xe đạp Phượng Hoàng, ở Việt Nam với chiếc xe đạp Thống Nhất, với giá gạo mậu dịch bốn hào một cân, v.v ... được giữ vững nhiều chục năm *. Ở trong các lĩnh vực khác cũng có một tình hình tương tự, ví dụ trong lĩnh vực văn hóa với những sản phẩm tinh thần được làm ra thường mang tính rập khuôn, giáo điều, lên gân và xa lạ với đời sống con người. Nó cũng làm "lưỡi gỗ hóa", thậm chí là trơ chẽn hóa trong hầu hết những cuộc trả lời phỏng vấn của các lãnh tụ cộng sản, những người phát ngôn, ... đây là căn bệnh chung và có tính "nghề truyền nghề"! Tất cả đã làm "đồng phục" hóa và "Gà công nghiệp" hóa hầu hết mọi thành viên trong xã hội, mọi người ăn, mặc, ở, đi lại, ... giống nhau, thậm chí cách nói năng, suy nghĩ cũng ít khác nhau. Vì vậy nó đã bóp chết rất nhiều khả năng sáng tạo, lối suy nghĩ độc lập,... của những con người sống trong các xã hội XHCN. Mọi sự đều mang dáng vẻ nhợt nhạt, thiếu sức sống. Ðể rồi khi mở cửa ra với thế giới bên ngoài thì thường bị hụt hẫng, lúng túng như những chú Gà công nghiệp dưới ánh nắng chói chang của mặt trời. Tất cả đều cam chịu một mức sống thấp đều nhau. Giả sử có ai đó muốn "nhô lên" thì cũng bị cơ chế ấy mau chóng kéo xuống. Trừ một lớp người đặc biệt đã tạo nó. Toàn hệ thống còn có một đặc điểm nữa là: hầu hết đều ra đời sau chiến tranh hay nội chiến, vì vậy có những con người có công trong các cuộc chiến ấy. Xã hội phong kiến trước đây phân biệt rất rõ giữa chức và tước, nhưng nay thì tất cả đã bị lẫn lộn: người ta thường thưởng chức cho nhau thay vì ban tước, mặc dù ngay cả điều này cũng có những bất công lớn. Hậu quả là thước đo giá trị về con người bị biến dạng, cũng như trong kinh tế quy luật giá trị bị bóp méo. Sự" truyền ngôi" cho nhau những tưởng là đã mất, nhưng nó đã không mất đi mà còn diễn ra nhuộm nhoạm, phổ biến hơn theo những tính toán cá nhân của những người nắm quyền lực. Vì vậy trong đa số trường hợp nó đã không chọn được những người tốt nhất cho công việc chung. Có khi không phải là 9 bỏ làm 10 mà 3 - 4, thậm chí chẳng có giá trị gì cũng "bỏ làm 10"! Kể cả chức vụ cao nhất của các nước này là chức tổng bí thư ÐCS. Ðiều đó đã tạo ra những cuộc chạy đua mà "năng lực" của các ứng cử viên được "đo" ở cổng sau chứ không phải cổng trước. Chúng càng làm cho những con người chân chính nản lòng, hệ thống do vậy gần như đã mất hết động lực. Biểu hiện trong tâm lý xã hội là: sau những hăm hở của một niềm tin trong sáng buổi ban đầu, thì nay là sự thất vọng, chán nản, buông xuôi. Nó gây ảnh hưởng xấu, có tính dây chuyền đến mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Chẳng hạn là tình trạng nhà nước thì "giả vờ" trả lương cho công nhân viên, rồi họ cũng lại "giả vờ" làm việc lại cho nhà nước. Năng suất và chất lượng lao động càng ngày càng tụt dốc thảm hại, trong khi vấn đề năng suất lao động lại là vấn đề quan trọng nhất, chủ yếu nhất. Chính nó, theo Lênin sẽ quyết định sự thành bại của phương thức sản xuất này so với phương thức sản xuất kia. Hàng hóa và các loại dịch vụ ngày càng đơn điệu và khan hiếm, xã hội tẻ ngắt và buồn chán. Từ quy luật "Năng suất lao động không ngừng tăng lên dưới CNXH" bị phá vỡ đã kéo theo hàng loạt "các quy luật riêng có" khác của CNXH như : "Quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân", "Quy luật đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao" (còn được gọi là "Quy luật cơ bản của CNXH"), ... đều đã bị gẫy đổ. Cùng với sự thoái hóa nghiêm trọng của hệ thống chính trị, đã dẫn đến sự tan rã của toàn hệ thống XHCN như nó đã diễn ra. Lê Nin đã từng viết:" Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ". Các nước XHCN đã tự bảo vệ được mình trong các cuộc chiến tranh nóng, nhưng đã không làm được điều đó trong xây dựng hòa bình, và đã thua trong cuộc chiến tranh lạnh vừa qua. Từ những trình bày trên ta rút ra kết luận : hệ thống XHCN trong thế kỷ 20 đã tự sụp đổ, vì nó bắt nguồn từ một học thuyết sai lầm, dẫn đến sự hình thành nên một cơ chế làm triệt tiêu hầu hết mọi động lực cho sự phát triển xã hội. Nó đã vĩnh viễn ra đi chứ không phải tạm thoái trào, để rồi một ngày nào đó sẽ phục hồi và quay trở lại như có những người đã từng phát biểu hoặc hy vọng. (tất nhiên có người làm vậy chỉ là để giả vờ trước nhân dân mà thôi). Cuộc "đại thực nghiệm" cho học thuyết của Mác ấy đã đại thất bại, sau 74 năm tồn tại trên nhiều vùng đất rộng lớn và đông dân cư của thế giới. Nó là một tai họa lớn cho nhân loại nói chung và nhất là cho nhân dân các nước XHCN nói riêng. Trong suốt một thập niên qua ở các nước Ðông Âu và các nước cộng hòa cũ thuộc Liên Xô đã diễn ra nhiều cuộc bầu cử tự do. Có một tình hình là: bất cứ một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nào dù đã đổi tên gọi, nhưng nếu có ý định phục hồi lại Chủ nghĩa xã hội thì đều bị thất bại trước những lá phiếu của nhân dân. Cuộc bầu cử tổng thống Nga vào tháng 3/2000 vừa qua đã chứng minh thêm cho điều này. Có nhiều người vốn là những đảng viên cộng sản cũ đã thắng cử, điều đó cũng là bình thường. Nhưng nguyên nhân thắng cử là bởi họ đã thực sự là đại diện cho tiến trình dân chủ mới, và cử tri bầu họ là vì lẽ đó, chứ không phải là để quay về với con đường trước kia. Những
hỗn loạn, xung đột của nước Nga hậu cộng sản gần 10 năm qua là có
thật, nhưng phải thấy rằng chúng là biểu hiện của những mâu thuẫn
sâu xa đã có từ lâu trong quá khứ, nay mới có điều kiện để bung ra.
Trước đây chúng đã bị dập đi bởi sự bưng bít thông tin và bởi bạo
lực của nền chuyên chính vô sản, làm cho người ngoài khó thấy được.
Nó chỉ chứng tỏ rằng: hễ càng ủ những mâu thuẫn ấy càng lâu thì khi
đủ điều kiện phát nổ, chúng sẽ càng nổ lớn. Và một tổng thống Nga
Bôrít-Enxin (Boris Yeltsin) nát rượu, tính khí thất thường. không
phải là đại diện xứng đáng cho một nước Nga mới. Một
số nhận xét thêm: Chủ nghĩa cộng sản có được bao nhiêu năm thì phong trào chống lại chủ nghĩa ấy cũng có được bấy nhiêu năm. Chính sự thông minh, khôn khéo của nhân loại và của nhiều nhân vật lớn trên thế giới, đã góp phần quyết định chiến thắng được phong trào cộng sản nói chung và phe XHCN nói riêng, trong cuộc chiến tranh lạnh vừa qua. Chúng ta tin rằng nếu còn sống đến hôm nay, thì công việc đầu tiên mà Mác làm là xem xét lại toàn bộ học thuyết của mình. Bởi vì ông là một nhà khoa học thật sự, và biết đâu nhân loại sẽ được thấy một vị "Anh hùng chống Mác" lại chính là Mác cũng nên! Nhưng tôi cũng lại nghĩ thêm: có khi ông tìm đến để xin lại đứa con tinh thần của mình, thì ông lại bị chính những người đang khư khư giữ nó nhất quyết chống lại. (nhiều khi chủ nhà lại còn dễ hơn là mấy ông gác cổng!). Với một ông Mác viết những Tuyên Ngôn Ðảng Cộng Sản,Tư Bản Luận, … dưới ánh đèn điện, lại được sự trợ giúp của truyền hình nhiều kênh, của mạng lưới thông tin toàn cầu (Internet), điện thoại, fax, ... sẽ khác với một ông Mác ngồi viết nó dưới những ngọn nến. Một ông Mác đi máy bay nhất định cũng không giống với một ông Mác đi xe lửa hay xe ngựa! Tổng kết về CNCS, cựu tổng thống Ba Lan Lếch-Valêxa (Lech walesa) đã có một câu nói lên sự thật phũ phàng, nhưng cũng thật chính xác: "Chủ nghĩa cộng sản là con đường dài nhất để đi từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa tư bản!". 1.3
- Sự phát triển của xã hội loài người từ khi có chủ nghĩa Mác tới
nay : Những trường hợp của bốn nước XHCN còn sót đến ngày nay lại càng khẳng định thêm cho điều này. Chưa kể đến Mông Cổ (Mongolia) mà đa số người dân vốn chỉ quen với đời sống du mục trên thảo nguyên, thì đã lấy đâu ra mâu thuẫn giữa "tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất", vậy mà cũng nhảy được một lúc 2 - 3 bậc lên CNXH ! (Trung Quốc và Việt Nam nhảy cóc một bậc là vẫn còn … ít!). Dự đoán trên đã sai, nhưng dự đoán sau đây còn sai tệ hại hơn nữa: trong Tư Bản Luận - quyển I ông viết "Giờ tận số của chế độ tư hữu TBCN đã điểm"!. - Trước và sau Mác nhân loại đã ra sức tìm kiếm nhiều phương cách khác nhau để giải quyết bài toán lợi - quyền. Kết quả là ngày càng có nhiều người vô sản hôm qua trở thành những người hữu sản hôm nay bằng lao động chân chính của họ. Luật pháp cũng thay đổi để bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thị trường chứng khoán cũng phát triển mạnh đã đẩy nhanh quá trình "cổ đông hóa". (nước Úc hiện nay có khoảng 5 triệu cổ đông trên tổng số gần 20 triệu dân, chiếm hơn 25% dân số. Có 500,000 các doanh nghiệp gia đình, chiếm 50% lực lượng lao động toàn xã hội. Trong một cuộc nghiên cứu gần đây thì nước Úc có 230,000 nhà triệu phú so với 75,000 cách đây 7 năm,tức là trung bình cứ 80 người dân thì có 1 triệu phú.) Nghĩa là họ vừa là người làm thuê, lại vừa là người làm chủ hoặc tự làm chủ hoàn toàn. Từ đó cái tâm lý đấu tranh một mất một còn kiểu "Ðược là được tất cả, mất chỉ mất gông cùm xiềng xích !" hay "quyết phá sạch tan tành" đã ngày càng bị đẩy lùi trong các xã hội văn minh. Nếu "đấu tranh này là trận cuối cùng" (những lời trong bài Quốc Tế Ca ), thì sau "trận cuối cùng" ấy họ sẽ mất nhiều hơn là được . Nhiều bộ luật cũng đã ra đời để hạn chế tình trạng cạnh tranh, vô chính phủ. Ví dụ là luật chống độc quyền: nếu công ty Microsoft hiện nay của Mỹ mà không có luật trên hạn chế, thì nó đã nuốt nhiều chú "cá bé" lắm rồi. Và nhà tỷ phú Bill Gates cùng một số bạn hữu của ông là những ví dụ điển hình, mà chỉ bằng tài năng và quyết tâm của họ đã trở thành những ông chủ lớn, từ những vốn liếng rất nhỏ nhoi ban đầøu. - Hệ thống chính trị cũng có những thay đổi về chất để chuyển từ nền Dân chủ tư sản cho một thiểu số sang nền Dân chủ đa nguyên cho nhiều người. Ở đó xã hội nhìn nhận và tôn trọng những khác biệt về tư tưởng, quan điểm chính trị, chủng tộc, tín ngưỡng, thành phần xuất thân, ... nghĩa là mọi quyền của con người đều được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Chỉ trừ ai hoặc nhóm người nào "khác biệt" đến mức đi tuyên truyền, cổ vũ hoặc trực tiếp nhúng tay vào các hoạt động bạo lực, khủng bố, tự hủy, v.v… Ðặc biệt nhất là quyền tự do ứng cử và bầu cử, qua đó người dân vừa bầu ra một chính phủ có kỳ hạn nắm quyền. Ðồng thời cũng bầu ra những lực lượng chính trị khác làm đối lập xây dựng đủ mạnh, để kiểm soát mọi hoạt động của chính phủ đương quyền. Thời gian ở vị trí đối lập chính là thời gian học việc của họ, và tất cả đều có thể bị thay thế bằng những lực lượng chính trị mới, nếu họ nói mà không làm hoặc làm không được việc. Họ sẽ không có nhiềư "cơ hội" để miệt mài làm ngụy biện và đạo đức giả với cử tri - những người đóng thuế. Ðồng thời giới truyền thông cũng có những quyền lực thật sự để thực hiện các chức năng phản ánh, hướng dẫn, giám sát và dự báo xã hội của họ một cách độc lập. Mặt khác còn là sự thăng bằng và chế ngự lẫn nhau của ba cơ quan quyền lực : lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nó không cho phép một cá nhân hay một đảng phái nào có quyền chi phối hoặc đứng hẳn lên trên nó. Tất nhiên ngay cả ở những xã hội phát triển nhất thì không phải mọi việc đều đã ổn thỏa. Vẫn còn có những bất công, có khi là rất lớn. Nhưng đấy là xã hội được nhiều người dân chấp nhận, và họ vẫn luôn ra sức phát hiện những điểm không ổn ấy, để tìm cách điều chỉnh cho nó ngày một hoàn thiện hơn. Còn ý tưởng xây dựng một xã hội mới hoàn toàn công bằng và bình đẳng, thì cả vềà lý luận và thực tiễn đều cho thấy rằng: chính nó mới thực sự là không tưởng, để rồi đã sa vào thảm cảnh "đi nhờ con cáo này để đuổi con cáo kia."! Mà con cáo mới này lại có nhiều móng vuốt hơn, răng cũng to và khỏe hơn do đó cũng "vồ" được nhiều gà hơn ! 2
- Hoàn cảnh mà CT Hồ Chí Minh đã chọn con đường đi cho dân tộc Việt
Nam. (Chủ tịch Hồ Chí Minh 1890 - 1969) Paris năm 1920, lúc này chàng trai 30 tuổi Nguyễn Ái Quốc tức CT Hồ Chí Minh sau này đã là thường trú nhân ở đây được 3 năm. Anh cũng mới ra nhập đảng xã hội Pháp được 1 năm. (CT Hồ Chí Minh sinh sống ở Pháp 6 năm từ 1917 - 1923). Liên tiếp trong hai ngày 16 và 17/7 tờ Nhân đạo (L’humanité) cơ quan ngôn luận của đảng xã hội Pháp đăng bài viết nhan đề: "Ðề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lê Nin, đây là một bài viết 8 trang và như sau này CT Hồ Chí Minh kể lại đại ý : "Trước đó tôi chưa hề đọc một cuốn sách nào của Lê Nin viết, nó làm tôi cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên, ngồi một mình trong phòng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta! Ðây là con đường giải phóng dân tộc chúng ta! ... Và từ đó tôi đã có một sự lựa chọn: tán thành Quốc Tế III và hoàn toàn tin theo Lê Nin, nhất quyết đi theo ngọn đuốc của Lê Nin vĩ đại để soi sáng đường cho cách mạng Việt Nam". Tuy nhiên có điểm sau đây cũng do ông kể lại: "Trong đề cương ấy có những chữ chính trị khó hiểu, nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính, ...". Tôi không có ý nói rằng hễ người nào không biết ngoại ngữ hoặc có biết nhưng không giỏi thì không thể chọn được đường đi cho dân tộc mình, nhưng ở vào hoàn cảnh của ông lúc đó, là người Việt Nam duy nhất đi theo con đường của Lê Nin, như chính ông và những đồng chí của ông đã nhiều lần khẳng định, mà với một bài viết không dài lắm ông đọc vất vả như vậy, thì sẽ không dễ gì ông hiểu được toàn bộ tư tưởng của Lê Nin, lại càng khó có thể hiểu được những tư tưởng của Mác . (vì như chúng ta biết là văn phong của Mác đọc rất khó hiểu, mà anh Nguyễn lúc ấy lại không có các tác phẩm của ông bằng tiếng Việt trong tay.). Một điểm nữa cũng cần phải lưu ý là việc tán thành Quốc Tế III của ông là ở vào một hoàn cảnh khác sau đó : Nước Pháp - Thành phố Tours cuối tháng 12/1920, lúc này đảng xã hội Pháp nhóm họp đại hội lần thứ 18 để thảo luận và quyết định một vấn đề quan trọng: nên tiếp tục theo Quốc Tế II như truyền thống hay theo Quốc Tế III? anh Nguyễn cũng được đảng chọn làm đại biểu đại diện cho xứ Ðông Dương thuộc Pháp tham dự đại hội. Sau này CT Hồ Chí Minh cũng đã kể lại đại ý : " Sau phần bỏ phiếu, người nữ thư ký ghi biên bản của đại hội hỏi : Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc Tế III? - Ông đáp: Rất đơn giản, tôi không phân biệt rõ sự khác nhau giữa Quốc Tế II, Quốc Tế II rưỡi hay Quốc Tế III. Tôi cũng không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác, nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc Tế III rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa, đến tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi. Ðấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu,…". (có tài liệu viết rằng đoạn đối thoại trên là xảy ra trước phần bỏ phiếu, nhưng theo tôi điều đó không ảnh hưởng gì đến thực chất của vấn đề.). Theo đánh giá của nhiều người thì câu chuyện ấy nói lên rằng đó là những khoảnh khắc lịch sử để CT Hồ Chí Minh "Ði từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến yêu CNXH sâu sắc". Theo tôi đây là một điểm lớn cần phải phân tích kỹ hơn *, nhưng cũng qua đó lại thêm một lần nữa khẳng định tính "hên - xui, may - rủi" trong việc chọn đường đi cho dân tộc của ông : một khi mà vào tháng 7 ông đã "nhất quyết đi theo ngọn đuốc của Lê Nin vĩ đại" rồi, mà 5 tháng sau đó ông vẫn không hề biết rằng Quốc Tế III chính là do Lê Nin sáng lập từ năm 1919 để dứt khoát chọn ngay từ đầu, vừa là để củng cố thêm cho con đường mà mình đã chọn, vừa ủng hộ cho người thầy lớn của mình. Vì vậy có thể nói trộm vía ông rằng: Hoàn cảnh mà CT Hồ Chí Minh đã chọn đường đi cho dân tộc vào năm 1920 ấy chẳng khác nào hoàn cảnh của một người ... bắt mèo ở trong bị! Hay nói một cách khác thì nó cũng tương tự như hoàn cảnh của một người đang ngồi trong ... sòng bài! Trong điều kiện làm việc đơn phương, vừa đói thông tin, vừa nghèo phương án đến như vậy, thì chẳng cứ gì chàng trai Nguyễn Tất Thành, mà bất cứ ai dù có là vĩ nhân đi chăng nữa, nếu có chọn được một con đường nào đó cho dân tộc, thì chắc chắn nó cũng sẽ có độ rủi ro cao, lành ít dữ nhiều mà thôi. (sau đại hội trên những ai bỏ phiếu cho Quốc Tế III đã tách ra để thành lập ÐCS Pháp, vì vậy đại hội Tours còn được gọi là đại hội sáng lập ÐCS Pháp.). Một câu hỏi đặt ra là nếu CT Hồ Chí Minh không chọn con đường của Lê Nin, thì Việt Nam sẽ đi theo con đường nào? Câu trả lời là: Việt Nam sẽ đi theo con đường các nước Ðông Nam Á (ASEAN) đã đi, mà Việt Nam chỉ mới ra nhập từ năm 1995 đến nay. Nếu như vậy đất nước đã không bị chậm nhiều chục năm so với thế giới, không phải gánh chịu những hậu quả kéo dài đến tận hôm nay, mà tôi xin trình bày rõ hơn ở phần sau. Cũng như đã tránh được mức độ khốc liệt vào giai đoạn cuối cuộc chiến tranh Ðông Dương lần thứ I (1946 - 1954). Và dĩ nhiên cuộc chiến tranh Ðông Dương lần thứ II (1954 - 1975) cũng đã không xảy ra. Máu xương của nhiều triệu con người Việt Nam ở cả hai phía đã không phải đổ xuống. Toàn bộ cục diện quốc tế và khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã chứng minh điều này. Ðiển hình là trường hợp của Malaysia: tuy các phong trào khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền của nước này, kể cả phong trào cộng sản đều bị thất bại nặng nề, nhưng vẫn được người Anh trao trả lại độc lập vào năm 1957. Một số nước khác thì sớm hơn như : năm 1946 có Philippines thuộc Mỹ, Syria và Liban thuộc Pháp. Năm 1947 có Ấn Ðộ, Pakistan và năm 1948 có Miến Ðiện (Myanmar), SriLanka, Palestin đều thuộc Anh và Indonesia thuộc Hà lan năm 1949, v.v… (riêng Thái Lan do nét đặc thù riêng nên không phải là một nước thuộc địa trước đó.) Tình hình các nước khác ở châu Phi, Mỹ La tinh, v.v… cũng là như vậy. Tất cả đều giành được độc lập dù ở đó có hay không có các đảng cộng sản lãnh đạo, có phong trào khởi nghĩa vũ trang hay không. Ðây là kết luận chung của các sử gia khách quan, chứ tôi không hề có ý định làm cái anh chàng "Khổng Minh sau trận đánh". Việc trao trả lại nền độc lập từ các nước chủ thuộc địa cho các nước thuộc địa cũ không phải diễn ra đồng thời, mà kéo dài từ năm 1945 đến giữa thập niên 60 trong thế kỷ 20. Trong đó nổi bật lên vai trò can thiệp của nước Mỹ, với đầy đủ cả những mặt xấu lẫn tốt của nó *. Vì vậy nếu ai nói rằng: CT Hồ Chí Minh đã có công đầu trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê Nin vào Việt Nam, rồi sau đó lãnh đạo ÐCS Việt Nam đưa dân tộc vào quỹ đạo của CNXH thì đúng. Nhưng nếu lại nói đấy là con đường duy nhất để Việt Nam giành lại được độc lập là sai. Càng sai hơn nữa nếu gắn thêm vào đấy những giá trị như : hạnh phúc và ấm no, bình đẳng và bác ái, dân chủ và tự do, v.v… Thậm chí có người cho đến lúc này vẫn còn so sánh mức sống chung của nhân dân hôm nay với trước cách mạng tháng 8/1945!(mà có khi cả làng chỉ vài nhà có xe đạp). Tôi cho rằng bằng cách đó họ đã tự gây thích thú cho mình nhưng đã làm khổ cả một dân tộc . Nguyên soái Giu-Cốp (Zhukov), 4 lần anh hùng Liên Xô - người có công rất lớn với nhân loại trong cuộc chiến tranh thế giới thứ II, đã viết trong cuốn hồi ký Nhớ Lại Và Suy Nghĩ của ông : "Người ta có thể xuyên tạc hay bóp méo lịch sử, nhưng không ai có thể làm lại được lịch sử ...". Ngày nay sau gần 80 năm trôi qua, dân tộc Việt Nam hoàn toàn có đủ điều kiện để chọn lại con đường đi cho dân tộc mình. Nhất định cả dân tộc cùng chọn sẽ tốt hơn một người chọn. Và vì đây là vấn đề của cả dân tộc thì phải để cho cả dân tộc ấy chọn. Không ai hoặc bất cứ một lực lượng chính trị nào có quyền đứng ra nhân danh dân tộc để tự ấn định hay khước từ quyền tự quyết thiêng liêng ấy, vì những lợi ích riêng của họ. Chính điều đó mới là vừa thiếu đạo đức, vừa thiếu văn minh! 3
- Ðường lối "Xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa" ở Việt Nam hiện nay. - Với các nước Ðông Âu và Liên Xô sau nhiều trăn trở, cuối cùng họ chấp nhận thất bại, kiên quyết đoạn tuyệt hẳn với quá khứ và làm lại từ đầu, nhằm bắt kịp dòng chảy của thời đại. - Với Cu Ba và Bắc Hàn thì vẫn tiếp tục cố thủ, không đổi cũ mà cũng chẳng đổi mới. Gần đây mới có những chuyển động, đang được thế giới quan tâm theo dõi. - Với Trung Quốc là đường lối "Xây dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc", được bắt đầu từ năm 1978. Thực chất của nó là sự thay thế từ thuyết "Hai ngọn gió Ðông - Tây" của Mao Trạch Ðông sang thuyết "Hai con mèo đen - trắng" của Ðặng Tiểu Bình. (một khi mà "gió Ðông" không thổi bạt được "gió Tây" thì người ta quay sang "bắt chuột" bằng bất cứ loại mèo nào, dù là mèo đen hay mèo trắng!). Ðiều này một mặt tạo ra động lực để nền kinh tế - xã hội Trung Quốc chuyển mình, nhưng mặt khác nó cũng cho người ta thấy : đây chính là một màn "thoát y vũ" ngoạn mục nhất về lý tưởng cộng sản! - Với Việt Nam thì tương tự như Trung Quốc : đổi mới kinh tế nhưng cương quyết không chấp nhận đổi mới chính trị. 3.2
- Cơ sở của đường lối mới: - Xét về tính chất sở hữu thì giữa hai nền kinh tế thị trường và nền kinh tế XHCN là hoàn toàn khác nhau: một cái chủ yếu là dựa trên cơ sở "tư hữu", còn cái kia lại chủ yếu dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nếu đem "trộn" chúng lại với nhau thì sẽ nảy sinh một quá trình ngược: mỗi bước tiến của cái này sẽ là một bước lùi của cái kia và ngược lại. - Xét về bản chất chính trị ứng với chúng thì cũng lại hoàn toàn khác nhau (theo Lê Nin thì chúng hơn kém nhau tới hàng triệu lần!). Nếu cũng đem "trộn" nền kinh tế này với nền chính trị kia thì ngoài việc nó mâu thuẫn với những nguyên lý chung, nó còn mâu thuẫn với chính "vấn đề cơ bản của triết học Mác-xít" rằng: "vật chất quyết định ý thức", "tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội" hay "cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng", v.v… (anh Hà Sỹ Phu gọi sự kết hợp này là "đứa con lai láu cá"!ù). Giả sử có một nền chính trị nào đó mà trước kia đã phù hợp với nền kinh tế XHCN, rồi nay lại cũng "sài" được luôn cho nền kinh tế thị trường, thì theo tôi có lẽ nó cũng giống như những viên thuốc ... xuyên tâm liên chữa khỏi bách bệnh, được quảng cáo rầm rộ ở Việt Nam ngày nào! Vì vậy tôi rất "khâm phục" vào tính "linh hoạt" của nhiều vị "thầy lang" ta, nghĩa là bệnh "hàn" hay "nhiệt" gì thì các vị cũng đều chỉ định cho cả dân tộc uống "xuyên tâm liên" hết. Có thể có một cách so sánh khác như sau: việc đưa ra công thức "trộn" trên cũng chẳng khác nào bảo cứ đun ... một góc vuông thêm 10oC nữa thì sẽ được … nước sôi! Vì nhân dân được họ giải thích rằng: độ của góc vuông là 90, còn độ sôi của nước là 100! Nhiều khi tôi cứ tự hỏi tại sao người ta lại bày chuyện cho cả một dân tộc lụi cụi đi "đun góc vuông" hoặc miệt mài "uống xuyên tâm liên" như vậy ? Nhất định phải có cái gì đó rất cụ thể, rất hữu hình chứ. Phải chăng cái đó là: dù đất nước sẽ tiến hay lùi, hay " nửa chừng xuân" thì đó không phải là điều mà những người khởi xướng nó quan tâm. Ðiều quan trọng nhất là phải làm sao khẳng định cho bằng được rằng: "ÐCS Việt Nam vẫn luôn luôn là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo đất nước, trước đây là vậy, ngày nay là vậy và mãi mãi sau này cũng sẽ là như vậy - đây là vấn đề có tính nguyên tắc"! Tất cả mọi cái gọi là đường lối hay một cái gì khác tương tự chỉ là hình thức * và để trình diễn mà thôi. Nếu quả là như vậy thì "bà chị" kia ác quá, đã biết "lá diêu bông" là thứ không hề có trên cõi đời này rồi mà vẫn cứ bắt người khác đi tìm, còn mình thì lẳng lặng đi "lấy chồng". Lại còn đi bước nữa, bước nữa! Từ những trình bày trên ta rút ra nhận xét: cũng như trước kia, đường lối mới hiện nay cũng hoàn toàn không có cơ sở khoa học và thực tiễn. Vì vậy khi đi vào cuộc sống tất nhiên nó sẽ nảy sinh ra nhiều hậu quả khôn lường. Nó không tránh khỏi sự khập khiễng, chắp vá theo kiểu "râu ông - cằm bà", và sớm muộn gì cũng đi vào bế tắc và khủng hoảng xã hội. 3.3
- Một số nét tiêu biểu của thực trạng xã hội Việt Nam hôm nay: a
- Sự lập lờ giữa hai vế của đường lối:
và trước đó nữa, cứ thế "các thế hệ cầu thủ trong câu lạc bộ" ấy truyền ngón nghề này lại cho nhau. Cuối cùng thì hầu như tất cả đều nhuần nhuyễn và đội bị "phơi áo" chính là nhân dân Việt Nam. Ngày nay mọi người đều thấy rằng biểu hiện cụ thể và rõ ràng nhất của tính "định hướng XHCN" là sự lãnh đạo đất nước duy nhất của ÐCS Việt Nam, còn trừu tượng và mờ nhạt nhất là những chính sách về phúc lợi xã hội, những khoản ngân sách dành cho y tế, giáo dục, v.v ... b
- Sự bất công xã hội sâu sắc:
Nhưng tại sao cơ đồ mãi mà không dựng lên được ? Ðơn giản là vì cơ chế ấy đã tạo ra quá nhiều bàn tay cả vô hình lẫn hữu hình thò ra tước đoạt hết rồi. Nếu các cụ Nam Cao, Ngô Tất Tố còn sống thì từ nhiều mảnh đời hôm nay, nhất định các cụ sẽ cho ra lò những Sống Mòn, Tắt Ðèn của Việt Nam thế kỷ 21! Một thị trường sức lao động đã tự phát hình thành bởi sự bần cùng hóa, ở đó nhiều người chỉ mong sao bán được sức lao động để đổi lấy miếng cơm, manh chiếu mà ăn ngủ qua ngày cho bản thân và gia đình họ thôi. Chứ nào có ai quan tâm đến chuyện những người đi thuê đã bóc lột một phần hay toàn bộ "giá trị sức lao động thặng dư" của họ đâu? Từ quảng trường Ba Ðình - Hà Nội ra ga Hàng Cỏ nếu đi xe hơi chỉ mất chừng 5 - 7 phút, nhưng có mấy vị đại biểu trước khi vào hội trường họp thử ra đấy xem nhân dân đi lại, làm ăn như thế nào? Xa hơn một chút là những chợ lao động Giảng Võ, Long Biên nơi mà quần chúng lao khổ khắp nơi đổ về, tụ tập lại. Họ giống như giai cấp vô sản ở thế kỷ trước mà Mác đã từng mô tả: "không còn gì để bán ngoài việc bán sức lao động", là "trần như nhộng", v.v… Cái "Tinh thần Ba Ðình" trên là căn bệnh ngày càng nặng, nó có cơ sở là: những mâu thuẫn về quyền lợi từ chỗ chỉ chênh lệch lúc đầu, nay đã trở thành đối kháng gay gắt giữa một thiểu số giai cấp thống trị với đa số giai cấp bị trị trong xã hội Việt Nam, kể cả những nhu cầu cơ bản và những nhu cầu bậc cao hơn của đời sống con người. Dù rằng rất nhiều người trong tầng lớp trên kia vẫn luôn miệng nói là tất cả đều "ngồi chung mâm", nhưng nhân dân thì ai cũng thấy tuy họ " mắt nhìn rau nhưng tay lại gắp thịt "! Tốc độ tích lũy tư bản của họï nhanh đến mức chóng mặt. c
- Sự bất lực của đảng và chính quyền trước quốc nạn tham nhũng: * Hơn 5 chiếc cầu Mỹ Thuận bắc qua sông Me Kong. (khoảng 54 triệu USD, với Úc đóng góp 2/3 và Việt Nam 1/3). * Gần bằng tổng mức thiệt hại cơn bão lụt miền Trung năm 1999. (trên 300 triệu USD). * Gần bằng 3/4 tổng kinh phí xây dựng xa lộ Trường Sơn giai đoạn I mới được khởi công xây dựng . (khoảng 380 triệu USD). * Bốn lần tổng chi phí thay sách giáo khoa hàng năm. (khoảng 1000 tỷ VNÐ/năm) hoặc 80 bệnh viện cấp tỉnh (khoảng 50 tỷ VNÐ/1 bệnh viện), trong khi Việt Nam có tất cả 61 tỉnh, thành phố. * V.V... Nếu chia đều cho tất cả người dân Việt Nam thì mỗi người cũng bị mất 50,000 VNÐ tương đương với 30 cân thóc.(tính giá1600-1700 VNÐ/cân, gần đây còn giảm hơn nữa). Nếu cộng tất cả các "phi vụ" đã hoặc chưa bị phát hiện thì không thể biết được là các "hào kiệt" thời nay đã "xúc trộm" của nhân dân tính cả già, trẻ, lớn, bé mỗi người là bao nhiêu cân thóc ? Rừng bị phá, núi bị bạt, đất bị bán, biển bị khoan như vậy, nhưng đa số những người dân lương thiện đã được hưởng gì từ đó? Tiền của đi đâu hết cả? Bất cứ ai là người Việt Nam, không ít thì nhiều đều có thể trả lời được câu hỏi này. Cái cỗ máy kia những tưởng ù lỳ, chậm chạp là vậy nhưng mỗi khi ngửi thấy hơi tiền thì lập tức nó "hăng máu lên" ! (chữ của Mác). Nếu cụ Ðồ Chiểu mà sống lại chắc cụ phải "khâm phục" về sự "liều mình như chẳng có" của các "nghĩa sỹ" thời nay lắm. Thậm chí có một "nữ anh hùng miền Nam" sau khi đã có dư luận về việc bà ta dùng tiền công quỹ mua nhà cho chàng kép cải lương của mình, thì chẳng những đã không sợ mà còn nổi giận đùng đùng xuất tiếp "tiền chùa" trả thêm cho khoản nợ còn lại, quả là "thay trai nay gái cũng đua tài"! dẫu có thể ngày đầu chưa quen "đường cầy" đâu thẳng ngay, nhưng đến hôm nay thì trên đất nước này đã có nhiều "đường cầy đảm đang" lắm rồi. Giả sử ai đó có ý định tổ chức một "Ðại hội các anh hùng, chiến sỹ thi đua toàn quốc" thuộc loại này thì Việt Nam ngày nay cũng "ra ngõ gặp anh hùng"! Cùng với những tiêu cực trong các công tác thanh tra, điều tra và thi hành án mà dư luận, báo đài trong nước đã từng nêu ra càng làm cho tinh thần "tay không bắt giặc" của các "hào kiệt", "nghĩa sỹ" thời nay dâng cao hơn bất cứ một thời đại nào trước đó. Ðể rồi có người đã dựa vào một bài thơ của Hồ Chủ Tịch mà sửa lại thành:
Chỉ có điều khi "sự nghiệp" của họ càng "đại thành công" thì sự nghiệâp của cả dân tộc càng đại thất bại. Ở Việt Nam hôm nay không phải như Lê Nin nói: "Cách mạng là sự nghiệp, là ngày hội của quần chúng", mà chính buôn lậu và tham nhũng mới thật sự là "ngày hội" của nhiều người. Khi nồi canh có một con sâu đã là "rầu" rồi, nhưng nếu nồi canh ấy đầy sâu thì vấn đề là phải xét lại chính "người nhặt rau", hay nói chính xác hơn là phải xét xem tại sao lại có cái "cơ chế nhặt rau" tai hại ấy ? Theo tôi nếu không có sự thay đổi sớm thì một nền kinh tế Việt Nam với nợ nần lút đầu, thực sự không có khả năng chi trả. Ðất nước bị xé lẻ ra để bán, vốn trong các xí nghiệp quốc doanh hoặc các liên doanh có một bên góp vốn thuộc sở hữu nhà nước chuyển dần sang tư nhân bằng nhiều cách khác nhau là sẽ ngày càng trầm trọng, dẫn tới nguy cơ mất nước kiểu mới. Cũng cần phải lưu ý rằng với tình trạng thông tin như ở Việt Nam hiện nay, thì nhân dân cũng chỉ biết được đất nước mình có bị vỡ nợ nước ngoài hay không ít nhất là phải hơn mười năm nữa. Bởi vì kỳ hạn của các khoản tín dụng trung và dài hạn thường là từ 20 năm trở lên, mà Việt Nam cũng chỉ mới bắt đầu vay được nhiều của nước ngoài (WB, IMF, ADB, Nhật Bản, Tây Âu, v.v…) từ năm 1993 trở lại đây. Nhưng lúc ấy thì đã quá muộn, trong khi chính nhân dân và con cháu chúng ta sau này mới là những người phải nai lưng ra trả nợ. Còn những "vị anh hùng" thì phần lớn đều đã "hạ cánh an toàn". Và những vần thơ của vị tướng tài danh Lý Thường Kiệt ngàn năm trước, vốn được coi như bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập đầu tiên của nước Ðại Việt, có lẽ phải sửa lại thành:
Bà Marie Holfman - giáo sư người Pháp thuộc một viện đại học ở Paris là một nhà Trung Quốc học nổi tiếng, khi được hỏi: "Vì sao ÐCS Trung Quốc đã từng chứng minh trong quá khứ là họ có khả năng tiêu diệt được hàng triệu kẻ thù không gớm tay, nhưng trước kẻ thù tham nhũng đe dọa sự sống còn của đảng thì họ lại bất lực ?". Ðã trả lời như sau : "Theo ý tôi câu trả lời rất giản dị, có một thời kẻ thù của ÐCS Trung Quốc phần lớn là do óc tưởng tượng của người cộng sản và nằm ngoài đảng. Ngày nay kẻ thù của họ nằm ngay trong đảng, tôi không có con số thống kê, nhưng có thể nói là đại đa số những cán bộ có thế lực của ÐCS Trung Quốc là thành phần tham nhũng. Làm sao mà những người gây ra tham nhũng lại có thể bài trừ được nạn tham nhũng?". Nếu đem vận những lời giải thích trên vào hiện trạng Việt Nam thì cũng hoàn toàn chính xác. Mọi cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn đảng ngắn, dài, lớn, nhỏ khác nhau đều đã bị đánh trống bỏ dùi, đầu voi đuôi chuột, vì sợ rút dây sẽ động rừng. d
- Tình trạng sản xuất bị đình đốn, thất nghiệp gia tăng, môi trường
đầu tư bị vẩn đục làm cho nước ngoài rút vốn: Nó cũng làm cho môi trường đầu tư bị vẩn đục nghiêm trọng. Chính sách cũng không nhất quán người này muốn đẩy, người kia lại hãm để "cân bằng giữa phát triển kinh tế với ổn định chính trị." càng làm cho các nhà đầu tư nản lòng, tìm cách rút vốn chuyển sang các nước khác làm ăn. Trong hai năm trở lại đây, trước tình hình đầu tư nước ngoài tụt dốc thảm hại, Ðảng, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam cùng các ngành, địa phương đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm khuyến khích nguồn này quay trở lại. Bằng cách đó cũng có thể cải thiện được phần nào tình hình, nhưng không vì thế mà vấn đề sẽ được giải quyết tận gốc rễ. Bởi vì nguyên nhân sinh ra nó, xuất phát từ chế độ chính trị là vẫn còn nguyên : một chế độ chính trị ổn định được đồng nghĩa đơn giản với việc chỉ có duy nhất một đảng lãnh đạo đất nước, không thuyết phục được thế giới tiến bộ nói chung và các nhà đầu tư nghiêm túc nói riêng. Nếu như không muốn nói ngược lại là chính sự "ổn định" ấy đang là nguyên nhân sâu xa gây ra những bất ổn. Họ - những nhà đầu tư có phương pháp đánh giá rủi ro riêng, chứ không phụ thuộc vào những gì chúng ta nói. Chúng ta có mạng lưới thông tin toàn cầu để phổ biến chính sách thu hút vốn, thì họ cũng có một mạng lưới như vậy, lại còn mạnh hơn để thông báo cho nhau những rủi ro khi đầu tư ở Việt Nam, vì họ đã có kinh nghiệm: Với một thị trường đã bị "chiến trường hóa" hôm nay là khác hẳn với một thị trường đầy mới lạ, hứa hẹn những hấp dẫn mà họ đã kỳ vọng 5 - 6 năm trước. Những nhà tư bản đi tìm kiếm lợi nhuận dù có yêu đất nước và con người Việt Nam đến mấy, nhưng một khi mà tiền không đẻ ra tiền thì cũng khó lòng mà "hăng máu lên" được ! Cộng thêm là những căn bệnh còn rất nặng nề và phổ biến như: "du kích chiến" và "địch - ta", v.v ... càng làm cho vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn. Với căn bệnh đầu là vẫn còn nhiều người làm kinh tế theo kiểu "nắm thắt lưng địch mà đánh" hoặc là "thằng Tây nó tiến thì mình giật lùi, thằng Tây nó lúi (lùi) thì mình giật tiền, thề quyết không tha !" (hát theo nhạc bài Ðoàn Vệ Quốùc Quân của nhạc sĩ Phan Huỳnh Ðiểu). Ðiều này cựu thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu khi làm cố vấn cao cấp cho các nhà lãnh đạo Việt Nam đã từng khuyến cáo, bằng cách này một số người có thể đạt được "thắng lợi" trong đoản kỳ, cá biệt nhưng về lâu dài thì chắc chắn là thất bại, nếu đứng trên bình diện quốc gia để đánh giá. Với căn bệnh sau là luôn lo sợ "địch" làm "diễn biến hòa bình" dẫn tới mất chế độ ta ! Ðể rồi có người đã dựa vào nhạc bài hát Huyền Thoại Mẹ của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn mà mô tả chân dung họ như sau :
Nhưng nhìn vào bức tranh Việt Nam hôm nay thì cũng dễ thấy: rất nhiều chương trình, công trình lớn, nhỏ thuộc nhiều lĩnh vực, cả bề nổi lẫn bề sâu được thực hiện đều có sự đóng góp của "địch"! Kể cả các công trình nâng cấp, trùng tu, bảo tồn, v.v … Cụ thể là các chương trình cho y tế, giáo dục, điện, nước, giao thông vận tải, ngăn chặn và triệt hạ tội phạm, phòng chống và khắc phục thiên tai, bảo vệ môi trường, cải cách hành chính, luật pháp, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo,… và rõ ràng nhất là chiếc cầu Mỹ Thuận vừa được khánh thành. (dỹ nhiên có nhiều người cũng chỉ là giả vờ mắc bệnh này để thực hiện "vận hội" của mình thôi. Việt Nam ngày nay là "miền đất hứa" của thói đạo đức giả. Chính nó, theo đức giáo hoàng Giôn-Pôn II là nguyên nhân sâu xa đã gây ra biết bao tội lỗi trên thế gian này.). Cùng một cách nhìn trên, với tình hình hiện nay, tôi cho rằng chúng ta cũng không nên hy vọng thái quá vào những vấn đề lớn khác như: hiệp ước quan hệ mậu dịch bình thường Việt - Mỹ được ký kết, kể cả việc Việt Nam sẽ ra nhập vào Tổ Chức Mậu Dịch Quốc Tế (WTO), ... những điều đó nếu nỗ lực đều có thể đạt được trong tương lai gần, nhưng rồi những niềm phấn khích ban đầu cũng sẽ qua mau, bởi vì những yếu kém vẫn còn đó. Rất nhiều thách thức đang chờ đón chúng ta ở phía trước, chẳng hạn là hàng hóa của Trung Quốc, Thái Lan, Aán Ðộ và nhiều nước khác đã sang trước, thì chắc gì chúng ta đã "chọi" được họ để giành được một thị phần như mong muốn ? Tương
tự là vấn đề thị trường chứng khoán: liệu chúng ta có xây dựng và
vận hành tốt được cái "Chợ chứng khoán" này hay không, một
khi mà giá trị những hàng hoá trong cái chợ ấy (giá trị của các công
ty cổ phần) rất dễ bị đánh tráo giữa thật - giả, tốt - xấu, …? (Chưa
kể đến sự yếu kém chung của nền kinh tế, cũng sẽ làm cho cái thị trường
ấy èo uột theo.). Theo tôi sẽ là không sớm nếu như ngay từ bây giờ
đã phải có những biện pháp nghiêm ngặt để ngăn chặn, nhằm hạn chế
bớt những vụ án kiểu Minh Phụng - Epco trên thị trường vốn thông thường,
sẽ lan sang thị trường vốn đặc biệt này trong tương lai. Vì nếu nó
xảy ra thì mức độ thiệt hại còn lớn hơn nhiều lần, và rồi hậu quả
cũng lại đổ hết lên đầu dân mà thôi. Tất nhiên với quan niệm Việt
Nam cần phải hội nhập càng sớm càng tốt vào nền kinh tế thế giới.
Với tư cách là một công dân Việt Nam, tôi hoàn toàn ủng hộ những nỗ
lực của phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, cùng nhiều người khác ở cả
trong và ngoài đảng để thúc đẩy cho những vấn đề trên sớm thực hiện.
Chúng cũng sẽ là những điều kiện tốt để đẩy nhanh tiến trình dân chủ
hóa đất nước. Một xã hội như vậy ắt sẽ đẻ ra nhiều Lý Thông hơn Thạch Sanh, một đất nước như thế chỉ có thể đi xuống chứ không thể đi lên được. Tất cả đều có cội nguồn của nó: một khi mà ở trên "thượng tầng kiến trúc" đã có một đường lối thực dụng đến mức trần trụi như đã trình bày, thì tất nhiên nó sẽ tác động trở lại xuống "hạ tầng cơ sở". Cả hai kết hợp lại, đã làm cho con người Việt Nam xuống cấp trầm trọng. Có lần tôi là thính giả của một buổi nói chuyện thời sự vào giai đoạn sau khi Ðông Âu và Liên Xô tan rã một thời gian ngắn, báo cáo viên sau khi phân tích tình hình thế giới, cùng thế và lực của cách mạng Việt Nam xong đã kết luận: "…Nói tóm lại đảng ta cương quyết không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.". Rồi ông cười cười nói tiếp, đùa thì ít mà thật thì nhiều: "đảng ta chỉ chấp nhận đa ... đô thôi!". Ai bảo là học thuyết "Hai Con Mèo" của Ðặng Tiểu Bình không tác động đến tư duy chính trị Việt Nam ? Lối suy nghĩ sống dựa vào người khác của "cơ chế xin - cho" xưa, mọi việc đều có "Liên Xô bao" những tưởng là đã mất hẳn, nhưng thật ra là còn rất mạnh, nó chỉ chuyển "đối tác" thôi. Ðể từ đó nó cũng chuyển từ tinh thần tự lực, tự cường của dân tộc sang "Tinh thần bị gậy" của nhiều quan chức thời nay. Nhiều vị "tung hoành" khắp năm châu , bốn biển vì "Việt Nam hôm nay đã là bạn của tất cả mọi người" ! (nhưng với những anh nghèo thì thấy các vị cũng làm bạn qua quýt, chiếu lệ lắm!) Việt Nam đã tiến hay đã lết vào thế kỷ 21 ? Theo tôi vấn đề nằm ở vế thứ hai. Tất cả đã lan nhanh từ trong đảng ra toàn xã hội, nhiều người coi việc sống tử tế, có tình nghĩa trước sau với nhau là "lỗi thời", họ lao vào sống gấp, tới đâu hay tới đó, nhất là lớp trẻ để rồi xuất hiện những con người "như chân lý sinh ra" thì ít mà do...sơ ý sinh ra thì nhiều! Các em tự ý bỏ học, rồi túm năm tụm ba với nhau chơi bời, hút chích, đua xe, cướp giật, v.v... có em coi việc vào tù chỉ là một chuyến đi chơi xa thăm bạn bè. Ðiều gì đã làm các em đi tới chỗ tự hủy hoại mình, làm khổ gia đình và làm băng hoại xã hội như vậy ? Xin đừng vội trách lớp trẻ, chính sự bàn giao thế hệ quá lèm nhèm hiện nay đã là một trong những nguyên nhân chính, tạo ra tâm lý nổi loạn, phá phách ấy và đáng trách hơn cả phải là thế hệ đi trước . Ngày càng có ít người quan tâm đến những vấn đề lớn của đất nước, vì đều cảm thấy chán nản và bất lực. Người ta đi tìm những giải pháp cá nhân để tự cứu mình và cứu gia đình. Có người tìm cách ở ẩn, có người chuyển sang thiền, chơi cây, cá cảnh, nghiên cứu tử vi, bói toán, đề đóm. Nhiều người quay sang bia rượu, để rồi từ đó hiện lên hình ảnh Ðất Nước, với những lời được hát theo nhạc một bài hát cùng tên của nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn : "Ðất nước tôi thon thả giọt đàn bầu, nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần ... rót bia hơi hai lần rót nhầm … rượu thuốc. Các anh say mềm mình mẹ ... dọn mâm ! Ðất nước tôi - đất nước tôi, có thế thôi!…". (thì ra không phải khi hết chiến tranh rồi là các bà mẹ Việt Nam đã hết các lý do để "khóc thầm lặng lẽ"! Bà mẹ nào sinh ra các anh như vậy thì có bao nhiêu nỗi đau mà chẳng dịu hết! Thôi cũng chỉ biết chúc các anh nếu lần sau có uống thì rót cho chính xác hơn!). Giữa sự khủng hoảng về nhân cách và các loại khủng hoảng khác ở Việt Nam hiện nay có mối quan hệ hữu cơ và biện chứng, chúng tác động và thúc đẩy lẫn nhau đang đưa đất nước ta tới cái giới hạn tột cùng của sự nguy hiểm. Nếu không ngăn chặn được, nhất định sẽ có một ngày tức nước vỡ bờ, dẫn đến một cuộc khủng hoảng toàn diện. Ðã có nhiều bộ luật nghiêm khắc ra đời để trừng trị tội phạm đủ loại. Nhiều người đã bị bắt, bị bắn nhưng rồi: "đùng đùng đùng! đoàng đoàng đoàng! anh vẫn đi", chẳng lẽ cứ bắt và bắn mãi như vậy hay sao ? Thủ tướng Thái Lan Chatichaichoonhavan vào cuối thập niên 80 đã phát biểu một câu nổi tiếng "Biến Ðông Dương từ chiến trường thành thị trường", nhưng ở Việt Nam hôm nay người ta đã "biến thị trường thành chiến trường" theo đúng nghĩa đen của từ này. Tính Mafia là có thật và ngày càng bành trướng sâu rộng từ ngoài xã hội tới các cơ quan công quyền, từ Trung ương tới các địa phương và cơ sở. 3.4
- Một số điểm cần làm rõ hơn: - Ý kiến 2: Gần đây tỷ lệ những người ngoài Ðảng được nắm giữ các cương vị lãnh đạo trong nhiều cơ sở kinh tế, xã họâi, kể cả trong Quốc hội đã tăng lên. Ðấy chẳng phải là biểu hiện của sự mở rộng dân chủ rồi còn gì! Cũng đúng là có như thế thật, nhưng thử hỏi liệu họ có làm được gì nhiều không cho dù họ muốn, để thay đổi những vấn đề lớn của đất nước? Một khi đã được Ðảng quyết định tất cả trước đó? Vì vậy chỉ một thời gian sau khi ra nhập vào bộ máy ấy, thì họ sẽ thấm thía ngay rằng : hoàn cảnh của mình sao giống như của chàng An Tiêm xưa trên hoang đảo là vậy. Giả sử mình có trồng được "dưa hấu", thì rốt cuộc cũng chỉ đủ cho mình và để "Tiến Vua" mà thôi ! Ðấy là chưa kể đến những khó khăn mà họ cần vượt qua trước đó : cứ phải nhặt hết thóc ra khỏi gạo thì các cô Tấm ngày nay mới được đi dự hội "Vua mở"! Ai không tin điều này, xin hỏi tiến sĩ địa vật lý Nguyễn Thanh Giang, người mà năm 1993 đã tự ra ứng cử đại biểu Quốc hội khoá IX tại Hà Nội. - Ý kiến 3: Nhưng ở Việt Nam cũng có những trường hợp thành công bằng chính tài năng và sức lực của họ đấy thôi. Cũng đúng là như vậy thật - chính họ là những niềm tự hào và hy vọng của đất nước. Họ có thể là những nhà doanh nghiệp quốc doanh hay tư nhân, nhà khoa học hay vận động viên thể thao, nhà kỹ thuật hay một ngư dân, một văn nghệ sỹ hay một lão nông. (tất nhiên số này là không nhiều so với những gương "đại thành công" khác.). Nhưng không bao giờ họ có thể là một nhà chính trị thực sự thành công, nếu họ không phải là đảng viên cộâng sản. Mặt khác với tài năng ấy, nếu được sống trong một xã hội thực sự dân chủ thì nhất định mức độ thành công của họ sẽ lớn hơn nhiều. Sự rủi ro sẽ giảm hẳn bởi một môi trường cạnh tranh lành mạnh, cùng với một hệ thống bảo hiểm tốt. Họ sẽ không phải chi ra những món tiền rất vô lý nhưng cũng rất khó từ chối. Không phải tiếp nhưng vị khách không mời đeo bám rất dai, mà nếu chỉ sơ ý "thấùt lễ" một lần thôi thì cũng có thể phải trả bằng một giá đắt. Muốn được yên thân nhiều người đã đành chịu khuất phục trước những sự đeo bám kia. Gần đây Ðảng và Nhà nước Việt Nam có chủ trương lấy ý kiến đóng góp của nhân dân cho "Dự án xây dựng và phát triển đất nước từ năm 2000 - 2020", nhưng theo tôi trước đó phải lấy ý kiến nhân dân về đường lối. Nếu chỉ cho phép làm cái sau mà khoanh đỏ cái trước lại không cho ai được động đến, thì một khi đường lối đã sai rồi, ắt sẽ kéo những dự án là con đẻ của nó cũng sai theo, và đất nước do vậy vẫn không có lối ra. Chúng ta không sợ đất nước không có những dự án đúng, mà chỉ sợ đường đi của cả dân tộc bị chọn sai! Từ những trình bày trên ta rút ra kết luận : Ðường lối mới hiện nay, xét cả về lý luận lẫn thực tiễn vẫn không phải là "cái cần thiết cho chúng ta", nó cũng không phải là "con đường giải phóng dân tộc chúng ta " thoát khỏi ách nghèo nàn và lạc hậu. Ðể rồi hôm nay, 25 năm đã trôi qua kể từ khi đất nước thống nhất, nhưng Việt Nam vẫn là một trong 10 quốc gia nghèo nhất trong tổng số gần 200 nước trên thế giới. Thu nhập bình quân đầu người vẫn chỉ quanh quẩn ở mức 1USD/ngày, ở các vùng nông thôn, vùng sâu, cao, xa,… lại còn thấp hơn nữa. Trước đây nghèo chỉ khổ nhưng ngày nay nghèo còn là nhục nữa. Chậm một thời gian ngắn đã thấy thua thiệt, đằng này đất nước đã chậm từ hết "năm bản lề" này sang "năm bản lề" khác, hết kế hoạch nọ đến kế hoạch kia. Ðể hôm nay con đường đi của dân tộc vẫn loằng ngoằng, quờ quạng như đường đi của một người bị khiếm thị nặng, đã đi trên con đường lạ thì chớ, mà lại còn bị mất kính, mất gậy ! Giả sử có ai lúc này còn khẳng định trước nhân dân rằng: chủ nghĩa Mác - Lê Nin vẫn là "chân lý sáng ngời", là "bách chiến, bách thắng" và tiếp tục dùng nó làm "kim chỉ nam" hay làm "ngọn đuốc soi sáng đường cho cách mạng Việt Nam", v.v … thì tôi cho rằng bằng cách đó họ đã làm cái công việc giống như của những người dùng chiếc sào của con đò ngang để chống cho con tầu … Titanic ! Sau khi nó đã bị đâm vào tảng băng định mệnh. Những chiếc sào kia dù là của con đò ngang hay con đò dọc cũng không thể dùng làm "Giải pháp cho Titanic" vào cái đêm tháng tư năm 1912 ấy được . Nếu nhớ lại những lời sang sảng ngày nào của cố tổng bí thư Lê Duẩn đọc tại hội trường Ba Ðình, trong đại hội IV ÐCS Việt Nam năm 1976 rằng : "Nước ta có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới." (ông nhắc lại những lời trong di chúc của CT Hồ Chí Minh) và kể từ đây thì: "Ðường lên chủ nghĩa xã hội thênh thênh rộng mở, chúng ta đoàn kết, chúng ta xây dựng, chúng ta cải tạo, chúng ta tiến lên !". Rồi
đối chiếu với hôm nay thì ai cũng thấy là kết quả đã lộn ngược : 4
- Nền dân chủ Việt Nam và một ý kiến đề nghị. Nếu nói về đặc điểm của thời đại ngày nay thì chính là: Thời đại của sự sụp đổ các chế độ độc tài lớn, nhỏ với đủ mọi hình thức trên phạm vi toàn thế giới. Là sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa và sự xuất hiện ngày càng nhiều các dân tộc tiến lên trên con đường dân chủ, đa nguyên, đa đảng và pháp trị. Ðấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân chủ và không chủ nghĩa xã hội. Nó ngược hẳn với những điểm cơ bản trong "Nội dung thời đại", được khẳng định trong Tuyên Bố Chung của Hội nghị 81 ÐCS họp tại Mátxcơva - Liên Xô tháng 12 năm 1960. Cũng chính lịch sử của dân tộc ta đã chứng minh rằng: có những triều đại đã bị suy vong dẫn tới mất nước vì sự thoái hoá của hệ thống chính trị, dù lúc đầu có thể là những triều đại mạnh. Nếu tổng bí thư Lê Khả Phiêu thực lòng muốn nghe những ý kiến ngược lại với ông, như trong một buổi trả lời phỏng vấn báo chí tháng 4/1998 đã phát biểu, thì ông có thể coi đây là một trong những ý kiến như vậy từ nhân dân. Ngoài ra còn một số luận điểm nữa cũng cần làm rõ, ví dụ : "Văn hoá và con người phương Ðông là khác với phương Tây nên không thể đem những giá trị của nền dân chủ phương Tây mà áp dụng vào phương Ðông, vào Việt Nam được". Tôi cho rằng nếu như ai đó vẫn còn say mê với những luận điểm thuộc dạng này thì cũng xin được lưu ý: Những giá trị tư tưởng của Mác, Ăng Ghen, Lê Nin, Stalin, v.v… cũng như những giá trị về nhân quyền và dân quyền đạt được sau hai cuộc cách mạng tư sản ở Mỹ năm 1776 và ở Pháp 1791, mà CT Hồ Chí Minh đã long trọng trích dẫn trong Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 2.9.1945 là của phương Ðông hay phương Tây ? Tại sao cái này thì được mở còn cái kia lại cứ bị đóng chặt mãi như vậy? Theo tôi những nền văn hoá có thể khác nhau, nhưng những giá trị về tinh thần nói chung và dân chủ nói riêng đã được nhân loại khẳng định là tốt, thì chỉ có một, nó không có biên giới. Nếu chỉ muốn tiếp nhận những giá trị vật chất mà khước từ những giá trị tinh thần tiến bộ của phương Tây, thì đấy là biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng sống sượng. Chính điều này đang làm hại dân tộc : những cái hay, tiến bộ thì bị ngăn chặn và phải đứng ngoài. Còn những cái tiêu cực, xấu xa thì đang tràn vào ồ ạt bằng đủ mọi con đường khác nhau, không sao cản được. Một điểm nữa là cứ giả sử nền dân chủ XHCN gấp triệu lần nền dân chủ tư sản đi, nhưng nếu bây giờ có một nhóm người Việt Nam yêu nước nào đó cũng muốn ra báo Người Cùng Khổ, như nhóm Nguyễn Ái Quốc đã làm 80 năm về trước ở Paris giữa lòng nước Pháp TBCN thì có được không? Chưa nói đến việc được quyền như CT Hồ Chí Minh và các đồng chí cộng sản Pháp của ông: họp đại hội Tours giữa ban ngày, tán thành Quốc Tế III với chủ trương rõ ràng là : Dùng bạo lực để giành chính quyền từ tay giai cấp tư sản. Nhưng rồi vẫn được an toàn sau đó ? Chẳng lẽ số 1 lại lớn hơn 1 triệu ư? Chẳng lẽ nền dân chủ ở thế kỷ 21 lại thấp hơn nền dân chủ trong thế kỷ 20 hay sao? Từ thực trạng đó mà nhiều người dân Việt Nam hôm nay chỉ ao ước làm sao cho hiến pháp hiện hành có được những giá trị về nhân quyền và dân quyền như Hiến pháp Việt Nam năm … 1946 ! Bao giờ cho đến … ngày xưa đây ? Chẳng lẽ trình độ dân chủ của các đại biểu quốc hội khoá X năm 2000 lại thấp hơn của các ÐBQH khoá I năm 1946 hay sao? Vì vậy có thể nói rằng dân tộc Việt Nam tính cho đến nay, khi mà thế kỷ 21 đã bước qua, nhưng dân tộc ấy vẫn chưa có tự do, dân tộc ấy vẫn chưa có công bằng và dân chủ thực sự. Toàn thể dân tộc phải đoàn kết lại cùng quyết tâm làm thì mới có được những giá trị thiêng liêng và cao quý ấy. b)
Một trào lưu dân chủ mới: Theo tôi nếu xét về những mục tiêu cần hướng tới của một nước Việt Nam mới, thì hầu hết các lực lượng dân chủ đều đã đạt được sự đồng thuận cao. Ðây là một thuận lợi rất lớn và rất cơ bản. Nhưng nếu xét về cách làm để đạt được chúng thì lại có những điểm khác biệt, đôi khi cũng rất lớn. Ðiều này cũng là bình thường bởi tính đa nguyên vốn có của cuộc sống. Ở phần này tôi xin mạnh dạn viết ra những suy nghĩ của mình, nó có những điểm giống và cũng có những điểm khác so với những gì đã có từ trước tới nay. Nhưng dù là khác thì rất mong quý vị độc giả hiểu cho rằng : lòng kính trọng cùng sự ngưỡng phục của tôi đối với các chiến sỹ dân chủ Việt Nam cả hữu danh hay còn đang thầm lặng là luôn trọn vẹn, trước sau như một. Ðó là những tình cảm xuất phát từ đáy lòng mình. - Những điểm giống nhau là: chúng ta vẫn cùng nhân dân kiên quyết đấu tranh để yêu cầu các cấp đảng, chính quyền Việt Nam tôn trọng những điều đã được ghi rõ trong hiến pháp hiện hành, trong các hiến chương, tuyên ngôn, công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, nhưng nay vẫn bị vi phạm kéo dài và thường trực . Ðể hỗ trợ tốt hơn, chúng ta có thể đề nghị với các nhà lãnh đạo Việt Nam hãy cho phép các phương tiện thông tin đại chúng phổ biến rộng rãi bản Tuyên Ngôn Toàn Thế Giới Của Liên Hiệp Quốc Về Nhân Quyền năm 1948 mà Việt Nam đã cam kết tôn trọng. Chứ nếu ký xong lại mang về cho vào tủ khoá kỹ lại, rồi tự mình nghĩ ra cách riêng để "làm nhân quyền" với nhân dân thì không ai có thể chấp nhận được. Ðiều mà dân tộc cần là những giá trị nhân quyền đã được quốc tế hóa, chứ không phải là "Việt Nam hóa" những giá trị ấy như bao nhiêu năm qua. Cả nước có trên 500 tờ báo nhưng ít báo nào đăng lại đầy đủ nó. Hệ thống phát thanh, truyền hình cũng hiếm khi nhắc đến hoặc nếu có thì thường là để tố cáo những người khác, nước khác vi phạm! Chính sự khiếm khuyết này đã làm cho người dân Việt Nam thiếu hẳn đi cơ sở pháp lý đấu tranh, khi nhân quyền của họ bị chà đạp. Chẳng hạn điều 19 của Bản tuyên ngôn trên có ghi: "Mọi người đều có quyền tự do tư duy và ngôn luận. Quyền này bao gồm quyền không bị gây khó khăn vì quan điểm của mình và quyền được tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức, ý kiến qua mọi phương tiện truyền thông và qua mọi biên giới". (xem website: http://www.lmvntd.org/dossier/tnqtnq.htm.) - Những điểm khác nhau là: theo tôi có cái gì đó không ổn về cách thức đấu tranh. Ví dụ như đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp hiện hành, trong đó quy định ÐCS Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo đất nước. Tất nhiên với một quốc gia đã có nền dân chủ đích thực thì hiến pháp của họ sẽ không bao giờ có điều nào tương tự như vậy, và chúng ta phải đấu tranh đến cùng để nó không còn nữa. Nhưng có điều là với những nét đặc thù Việt Nam, cũng khó có gì để bảo đảm rằng nó sẽ được đa số nhân dân mong muốn và ủng hộ? Chúng ta chỉ mới có cảm tính là như vậy thôi. Tất cả vẫn chưa được định lượng cụ thể, chưa thật sự lấy dân làm gốc trong cách làm. Tương tự với những vấn đề khác như : yêu cầu tổ chức một cuộc Bầu cử tự do có quốc tế giám sát, muốn đổi tên nước, quốc kỳ, quốc ca. Muốn tách sự lãnh đạo của Ðảng ra khỏi quân đội, công an, v.v… Chính những sự khác nhau ấy đã nảy sinh ra nhiều cuộc tranh luận, có khi trở thành tranh cãi làm tiêu hao biết bao thời gian, sức lực và lòng nhiệt tình của nhau, mà đa số đều là những người có tâm huyết với đất nước và dân tộc. Thậm chí có một số người "chém thớt" lại còn nhiệt tình và hiệu quả hơn là "chém cá"! Ðể rồi tình trạng "Tọa sơn quan hổ đấu" đã diễn ra, nhiều người trong số "quan hổ đấu" kia đã chuyển từ "múa tay trong bị" ra "múa tay ngoài bị", bởi vì họ đã "Bất chiến tự nhiên thành". Ngay cả đối với bạn bè quốc tế, những người thường xuyên quan tâm đến tình hình Việt Nam cũng vậy : tuy đều mong muốn thúc đẩy tiến trình dân chủ cho Việt Nam tiến lên phiá trước, nhưng mỗi người khác nhau cũng có những nhận thức và hành động khác nhau. Nếu chỉ vì sự khác nhau ấy mà chúng ta lại đi phê phán hay chỉ trích họ sẽ làm phân hóa các lực lượng dân chủ Việt Nam, trên cả bình diện quốc gia và quốc tế. Trong khi hơn lúc nào hết vấn đề đoàn kết lúc này là rất quan trọng và rất cần thiết. Nó là sức mạnh và nó cũng là lực lượng. 4.2
- Một ý kiến đề nghị: Ðây chính là công việc nhằm định lượng hoá lòng dân Việt Nam. Nó không đòi ai cái gì mà chỉ đề nghị một cách làm là hãy hỏi ý kiến nhân dân về một vấn đề lớn và rất bức xúc của đấùt nước hiện nay. Cũng có thể có những câu hỏi khác, với những yêu cầu khác cao hoặc thấp hơn. Nhưng theo tôi yêu cầu trên là trung bình, mà nếu đạt được thì nó sẽ tạo cơ sở tốt cho những bước dân chủ tiếp theo. Tuy là trung bình nhưng nó cũng đủ tầm mức quan trọng cho một cuộc Trưng Cầu Dân Ý(TCDY). Tất nhiên theo đúng tinh thần đa nguyên và nguyên tắc đa số. Tôi sẵn sàng ủng hộ cho một câu hỏi khác thích hợp hơn, miễn là nó được đa số dân tộc ủng hộ. Sau đây là phác họa một số nét lớn của nó : - Thành lập một Ủy Ban Quốc Gia Trưng Cầu Dân Ý (UBQG về TCDY), mà bước đầu có thể là một Ban trù bị. - Thành phần của ủy ban bao gồm cả những đảng viên cộng sản và người ngoài đảng. Tỷ lệ chẳng hạn là 50/50, trong đó có đầy đủ đại diện của các tầng lớp, giai cấp, tôn giáo, sắc tộc, vùng, miền,… trong cả nước và đại diện cho các cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài gần 3 triệu người. Bởi vì đây là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc, hơn nữa rất nhiều người trong số họ còn mang quốc tịch Việt Nam. Tuy uỷ ban cần bảo đảm đầy đủ các thành phần được nêu trên nhưng cũng không nên quá cồng kềnh, hình thức. Ðiều này Ban trù bị sẽ quyết định cụ thể. Các thành viên trong uỷ ban phải là những người thực sự có tinh thần dân chủ, có năng lực làm việc và có đủ sức khoẻ. - Sau khi được thành lập, UBQG về TCDY sẽ tiến hành các công việc chuẩn bị như : xây dựng điều lệ, phương án hoạt động, nội dung tuyên truyền trong nhân dân cả nước về mục đích, ý nghĩa của công việc này, trong đó kể cả việc thành lập các ủy ban TCDY ở địa phương và cơ sở. Thời gian thành lập UBQG TCDY cần được tổ chức càng sớm càng tốt. Tinh thần là không nên quá nóng vội, nhưng cũng không nên quá chậm chạp. Giả sử cuộc TCDY trên được tổ chức sẽ có hai khả năng sau đây : a) Nếu đa số phiếu trả lời là KHÔNG thì ÐCS Việt Nam sẽ tiếp tục nắm quyền lãnh đạo đất nước, cho đến khi nào nhân dân thấy cần thiết là nên có một cuộc TCDY mới. b) Nếu đa số phiếu trả lời là CÓ thì ÐCS Việt Nam cần phải chấp nhận kết quả ấy. Hiến pháp hiện hành cũng phải được Quốc hội sửa đổi, bổ sung và thông qua những điểm liên quan, sao cho phù hợp với tình hình của đất nước sẽ có nhiều đảng hoạt động trong tương lai. ÐCS Việt Nam cũng vẫn tiếp tục nắm quyền lãnh đạo đất nước cho đến khi có một đảng nào đó tỏ ra xứng đáng hơn và giành được chiến thắng trong một cuộc Bầu cử tự do. Bằng cách này đất nước cũng sẽ tránh được những khoảng trống quyền lực của một cuộc khủng hoảng tiềm tàng. Mọi sự phát triển đều có tính kế thừa, tuần tự trong khuôn khổ pháp luật. Tôi tin rằng nếu cuộc TCDY như vậy được diễn ra, nhất định thế giới tiến bộ sẽ nhiệt tình ủng hộ Việt Nam. Nhưng chúng ta chỉ cần bạn bè giúp đỡ về mặt kỹ thuật, vì Việt Nam chưa có kinh nghiệm. Chẳng hạn như nước Úc hào hiệp đã từng tổ chức 45 lần TCDY từ ngày thành lập liên bang (1901) đến nay. Trong đó người dân Úc chỉ 8 lần bầu có và 37 lần bầu không cho những câu hỏi. Tất cả những việc còn lại, với một luồng dân khí mới, tôi tin rằng chúng sẽ được tiến hành tốt đẹp. Một môi trường chính trị lành mạnh sẽ có một môi trường kinh tế - xã hội trong sạch, kể cả môi trường đầu tư. Lúc ấy nó mới có khả năng kết hợp được sức mạnh tổng hợp của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Ðưa đất nước ta cất cánh. Nó còn có tác dụng ngăn chặn và xử lý tốt những nhà đầu tư nào có mưu đồ làm bậy và mở đường cho các ngành khoa học xã hội, khoa học quản lý tiến lên . Mặt khác nó còn có tác dụng đẩy nhanh tiến trình hòa giải và hòa hợp dân tộc. Muốn vậy, chỉ có cách là phải cải thiện thực sự chế độ chính trị hiện nay, thông qua những cách làm dân chủ mang tầm vóc toàn dân tộc. Trên đây chỉ là một ý kiến phác thảo cho một cách làm. Nó chỉ có thể trở thành một phương án có tinh khả thi nếu được được đa số dân tộc ủng hộ. Tôi rất mong bạn đọc xa gần chia sẻ cùng tôi ý kiến này. Tuy TCDY vẫn còn xa lạ với nhiều người Việt Nam, nhưng nó đã là một sinh hoạt chính trị quen thuộc trên thế giới hàng thế kỷ qua. Ngay ở miền Nam Việt Nam vào ngày 23/10/1955 dưới thời của thủ tướng Ngô Ðình Diệm cũng đã có một cuộc TCDY được tổ chức, nhằm lựa chọn giữa nền Quân chủ hay nền Cộng hòa. Kết quả sau đó là nền Ðệ Nhất Cộng Hòa của miền Nam đã ra đời, với việc truất phế ngôi Quốc trưởng của cựu hoàng Bảo Ðại và thủ tướng Ngô Ðình Diệm lên làm tổng thống. Ở đây tôi không có ý nhắc tới khiá cạnh chính trị của vấn đề, mà chỉ quan tâm đến mặt kỹ thuật của nó, (vì khía cạnh chính trị này rất nhạy cảm và dễ gây ra những tranh luận không cần thiết lúc này). Nếu ai đó có kinh nghiệm hoặc bất cứ kiến thức gì liên quan, xin hãy nhiệt tình đóng góp vì lợi ích chung của đất nước. Có
thể có những ý kiến xung quanh vấn đề này như sau: Ðó chính là cơ sở cho sự đa đảng, trong một xã hội đã có sự đa nguyên. Sẽ thật là vô lý nếu như ở dưới thì cứ "chia ra", còn ở trên thì cứ "hội tụ" mãi như thực tế Việt Nam hôm qua và hôm nay được. Cũng cần lưu ý là: vào giai đoạn đầu nếu có sự đa đảng thì tình hình có thể sẽ tương tự như ở các nước Ðông Âu, Liên Xô cũ 10 năm về trước. Tức là sẽ có nhiều đảng ra đời, nhưng cùng với sự sàng lọc của thời gian, con số này sẽ giảm xuống. b
- Sự bảo đảm cho tính khách quan, vô tư ? - Thứ nhất là do tính đa dạng và phẩm chất tốt của các thành viên trong UBQG TCDY. Nó sẽ là một cơ sở tốt để tạo ra một cơ chế làm việc thực sự dân chủ, từ đó cũng sẽ có những cách thức để các thành viên trong ủy ban kiểm tra chéo công việc của nhau, vì lợi ích chung của quốc gia. - Thứ hai là cuộc TCDY này chỉ bầu một nguyên tắc, chứ không bầu những con người cụ thể, như trong các cuộc bầu cử thông thường rất có thể sẽ bị nhiễu loạn thông tin mà quyết định sai đi. Tức là cử tri chỉ đi bầu CÓ hay KHÔNG cho một câu hỏi. Vì vậy nếu có ai đó muốn đánh tráo cái "nỏ" giả của cha con Triệu Ðà, Trọng Thủy lấy chiếc nỏ thật của thần Kim Quy cũng khó mà thực hiện được mưu đồ. Không ai lại tự đi làm nhiễu loạn chính mình cả. Nó cũng tương tự như hai cuộc TCDY năm 1999 vừa qua đã diễn ra trên thế giới : Ở
Úc với câu hỏi: nước Úc nên hay không nên trở thành một nước Cộng
hòa ? - Thứ ba là vai trò kiểm soát và giám sát của nhân dân : Có thể ví rằng bao nhiêu người dân sẽ là bấy nhiêu những ngọn đèn đứng gác, sẵn sàng soi rọi vào những ý đồ đen tối nếu có nào đó. c
- Liệu ÐCS Việt Nam có chấp nhận hay không ? Ðã có những cột mốc lịch sử lớn để làm điều này, nhưng tất cả đều đã bị né tránh không làm. Ðó là: - Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Ðình - Hà Nội, trong toàn bộ nội dung của Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập là không hề có một câu nào về CNXH hay CNCS cả. Cũng không có một chữ nào về quyền lãnh đạo đất nước của ÐCS Việt Nam. Lời thề của hơn nửa triệu nhân dân Hà Nội và các vùng phụ cận, thay mặt cho nhân dân cả nước hô vang trong buổi chiều hôm ấy là lời thề ÐỘC LẬP! Nếu có một lần CT Hồ Chí Minh dừng lại hỏi nhân dân, thì đó là câu hỏi:"Tôi nói đồng bào nghe rõ không ?" mà thôi, tuyệt đối không phải là một câu hỏi nào khác . Có ý kiến cho rằng: nhưng hôm đó đồng bào cả nước đều đã đi mít tinh và nhiều người đã giương cao lá cờ đỏ sao vàng, là lá cờ của nước Việt Nam XHCN sau này đấy thôi. Ðiều đó chẳng đã chứng minh sự ủng hộ của nhân dân cho CNXH rồi là gì ! Ðúng chuyện vẫy cờ là có thật. Nhưng đấy là lá cờ mà dân tộc lúc ấy coi nó có ý nghĩa như một biểu tượng cho nền độc lập quốc gia còn non trẻ, vừa mới giành lại được sau gần một trăm năm dưới ách nô lệ của Thực dân, Phát xít. Rằng : "Nước Việt Nam của người Việt Nam!", "Ðộc lập hay là chết!". Dân tộc đã ủng hộ lá cờ ấy, vào những khoảnh khắc lịch sử ấy là theo những ý nghĩa ấy mà thôi. Sau này dân tộc sẽ đi theo con đường nào thì những người lãnh đạo quốc gia phải hỏi ý kiến của họ! - Những cột mốc quan trọng khác nữa như : tháng 10 năm 1954 có nhiều đồng bào miền Bắc đã đón chào Chính Phủ Kháng Chiến của CT Hồ Chí Minh, cùng đoàn quân chiến thắng trở về, sau chiến dịch Ðiện Biện Phủ. Nhưng trong những khẩu hiệu được giăng lên hoặc hô vang, cũng không có một câu chữ nào về CNXH hay CNCS cả. Dĩ nhiên lại càng không có một cái gì đó tương tự với đồng bào miền Nam vào những ngày tháng 3, tháng 4 năm 1975. Ai không tin điều này xin xem lại những thước phim tài liệu hiện còn lưu giữ ở trong nước hoặc đọc lại Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập năm xưa. Khi còn sống CT Hồ Chí Minh cũng đã từng một lần ủng hộ cho cách làm này. Ðó là khi ông thay mặt cho Chính Phủ Liên Hiệp nước Việt Nam DCCH ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 với đại diện của Chính Phủ Pháp tại Hà Nội lúc ấy là tướng Xanh-tơ-ni (Jean Saiteny). Một điều khoản trong hiệp định đó đã xác định: Việt Nam chấp thuận nằm trong Liên Bang Ðông Dương thuộc khối Liên Hiệp Pháp, và Nam Bộ có trở về với Việt Nam hay không sẽ thông qua một cuộc trưng cầu dân yù. Trước ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 ông cũng nhắc lại điều này tại điểm 4 trong lời kêu gọi gửi Liên Hiệp Quốc, nhằm tố cáo phía Pháp vi phạm hiệp định trên. (Hồ Chí Minh toàn tập - tập 4 - NXB chính trị quốc gia Hà Nội 1995, trang 467). Ở đây tôi không có ý nhận xét gì về tư tưởng Hồ Chí Minh (nếu ông có). Tôi cũng luôn tôn trọng những người lương thiện vốn tôn kính hoặc thần tượng ông. Nhưng chỉ có ý kiến rằng : nếu ai đó vẫn quan niệm rằng "Thế giới còn biến đổi nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi" thì theo tôi, một trong những việc làm để họ tỏ lòng tôn kính ông chính là ủng hộ cho một cuộc TCDY như trên được diễn ra. Vì đây là một cách làm dân chủ, mà CT Hồ Chí Minh cũng đã muốn làm hơn nửa thế kỷ trước. Nhưng vì tấm lòng quá… yêu thuộc địa cũ lúc ấy của người Pháp nên đã không được thực hiện. Ngược lại, ai đó cứ "Giữ gìn và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh" theo cách: cái gì có lợi cho mình thì đưa ra dùng, còn nếu bất lợi thì phớt lờ hoặc giấu nhẹm đi là rất thiếu tử tế với nhân dân. Ðồng thời, chính họ đã xúc phạm tới vong linh của CT Hồ Chí Minh. Cũng lại có ý kiến cho rằng : nhưng sau đó các Nghị quyết đại hội Ðảng III năm 1960 và ÐH IV năm 1976, đều đã xác định rõ con đường đi lên CNXH. Rồi lại có những cuộc mít tinh ủng hộ của nhiều tầng lớp nhân dân cho thành công của các đại hội trên là gì! Cũng đúng là có như vậy thật, nhưng đấy chắc gì đã là đa số và thực chất ? Hơn nữa thử hỏi nhân dân còn có sự lựa chọn nào khác một khi mà chính quyền cách mạng đã được thiết lập, nền chuyên chính vô sản đã được củng cố với chức năng thứ nhất của nó là: bạo lực và trấn áp ! Ðiều này đã được Lê Nin căn dặn rất kỹ lưỡng trong tác phẩm Nhà Nước Và Cách Mạng của ông. Mít tinh ủng hộ thì được, nhưng thử biểu tình phản đối xem điều gì sẽ xảy ra ? Bất cứ người dân Việt Nam nào dù là thờ ơ với gông cùm, xiềng xích nhất cũng có thể trả lời được câu hỏi này. (Một điểm nữa để thấy rõ hơn : nếu so sánh mức độ cự tuyệt CNXH của đồng bào miền Nam, ta sẽ thấy là mạnh hơn nhiều so với đồng bào miền Bắc. Ðơn giản là vì tuy nền dân chủ ở miền Nam trước năm 1975, vẫn chưa phải là một nền dân chủ đích thực nhưng nó đã có mầm mống. Còn đồng bào miền Bắc sau năm 1954 là không có gì tốt hơn để so sánh, ngoài chế độ thực dân, nửa phong kiến trước tháng 8/1945 của những kiếp người dân nô lệ. Với cái đói kinh hoàng năm Ất Dậu .). Vì vậy có thể nói rằng: Trong suốt 55 năm qua kể từ ngày 2.9.1945 đến nay, trước dân tộc, ÐCS Việt Nam vẫn luôn là tự xướng danh chứ không chính danh ! Nếu muốn chính danh thì ÐCS Việt Nam cần phải thắng trong một cuộc Bầu cử tự do. Khi đất nước đã có những lực lượng chính trị khác ra tranh cử. Một cuộc TCDY như trên sẽ là bước khởi đầu quan trọng. Tổng bí thư ÐCS Việt Nam Lê Khả Phiêu cũng đã có lần tuyên bố: "Sẽ bảo vệ sự độc quyền lãnh đạo của đảng cộng sản, sẽ duy trì định hướng XHCN. Những người khuyên nên từ bỏ CNXH và vai trò lãnh đạo của ÐCS là sai lầm, vì đây là sự chọn lựa của nhân dân và của lịch sử ". Theo tôi ông sẽ đúng nếu như cuộc TCDY trên được diễn ra và đa số nhân dân từ chối có sự đa đảng ở Việt Nam. Trường hợp xấu nhất nếu cuộc TCDY bị khước từ thì trước dân tộc ÐCS Việt Nam vẫn là không chính danh. Lúc ấy toàn bộ sự thật đã được bóc trần đến cực độ là: Những người nắm thực quyền trong ÐCS Việt Nam, do lo sợ thất bại trước một luật chơi hoàn toàn công bằng và dân chủ, nên đã khước từ nó vì duy nhất quyền lợi của bản thân và gia đình họ. Họ chỉ là số ít chứ không phải là số nhiều. Họ vừa tự cô lập mình, vừa bị nhân dân Việt Nam cùng các lực lượng dân chủ trên thế giới khép chặt vòng vây, để danh sách của họ ngày càng ngắn lại và lộ dần ra. Họ thực sự là những người đã và đang ra sức tìm mọi cách, dù là tuyệt vọng để ngáng đường dân tộc muốn đi. Họ không có cơ sở để tồn tại cả về lý luận và thực tiễn, trừ súng đạn. Họ là phi nghĩa. Họ không nên cứ nhắc đi nhắc lại mãi câu nói của CT Hồ Chí Minh 40 năm về trước "Ðảng ta là đạo đứùc, là văn minh" nữa. Họ giống những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống ở chỗ là cùng bán nước. Chỉ khác là những kẻ kia thì bán trọn gói một lần. Còn họ thì tìm cách câu giờ, xé dần đất nước ra để bán lẻ và bán rẻ mà thôi! Dĩ nhiên họ không phải là tất cả hơn 2 triệu đảng viên cộng sản, cũng không phải là toàn bộ 170 UVTW Ðảng hiện nay. Mà chỉ là một thiểu số bảo thủ nắm thực quyền cùng những kẻ bấu xấu, lươn lẹo, ăn theo, nói leo. (số này không hẳn đã là ÐVCS, tình hình đất nước cùng những vụ án lớn vừa qua đã chứng minh rõ điều này.). Họ cần phải bị vạch mặt, chỉ tên, cần những người có lương tri hoặc công khai tố cáo, hoặc âm thầm sao chụp, lưu giữ những hồ sơ tội ác mà họ đã, đang hoặc sẽ làm. Ðể trong tương lai đưa ra xét xử công khai, đúng pháp luật như các nước Ðức thống nhất, Chi lê, Nam Hàn, Philippines, Indonesia, ... đã và đang làm. Dù họ là ai, tuổi tác thế nào, từng nắm chức vụ gì đi chăng nữa . Và cuộc đấu tranh cho một nước Việt Nam mới của toàn dân, trong đó có rất nhiều những đảng viên cộng sản chân chính sẽ vẫn còn tiếp diễn cho đến khi nào đạt được thắng lợi cuối cùng mới thôi. Một trong những khẩu hiệu đấu tranh trong giai đoạn mới có thể sẽ xuất hiện là:
Với sự kiên trì, lòng quyết tâm của khối đoàn kết toàn dân, được sự ủng hộ quốc tế, lại có chính nghĩa và phương pháp đúng đắn. Chắc chắn cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ cho Việt Nam sẽ giành được thắng lợi hoàn toàn, trừ khi:
Nhưng tôi tin rằng điều đó sẽ không xảy ra, bởi vì cái tốt nhất định cuối cùng phải thắng cái xấu, cái thiện phải thắng cái ác, chính nghĩa phải thắng phi nghĩa và trí nhân phải thay cho cường bạo. Lịch sử dân tộc Việt Nam ta và thời đại ngày nay đã chứng minh rất rõ những điều đó. Và cũng bởi vì: "Chỉ có súc vật mới thờ ơ với những nỗi đau của đồng loại để chăm sóc cho bộ da của mình!". (lời của Mác) 5
- Vấn đề đoàn kết dân tộc - những niềm tin tưởng. Ðúng! Số phận đau thương của dân tộc ta trong hơn nửa thế kỷ qua không có gì đáng vui để mà cười cả. Nỗi đau ấy vẫn đeo đẳng dân tộc đến tận hôm nay dứt mãi chưa ra. Nếu như trước kia là những nỗi đau của sự mất mát, chia ly thời chiến tranh, thì nay là những áp bức và bất công, đói nghèo và tủi nhục của thời hoà bình. Nhưng tôi hoàn toàn tin tưởng có cơ sở rằng một ngày không xa nhất định mùa đông và mây mù sẽ tan trên quê hương Việt Nam. Cơ sở của lòng tin ấy là: tình tự dân tộc và tính nhân bản của con người Việt Nam sẽ dần được phục hồi và chiến thắng tất cả. Nó sẽ vượt lên trên mọi cái ác, nó lấp bằng mọi hố sâu ngăn cách của quá khứ chính trị, hoàn cảnh xuất thân, sự giàu - nghèo, tôn giáo, sắc tộc, trình độ, tuổi tác, vùng, miền… để đoàn kết muôn triệu người Việt Nam ở cả trong và ngoài nước thành một khối vững bền. Nó băng qua mọi khó khăn, thử thách để tiến lên giành thắng lợi bằng con đuờng dân chủ, nhằm xây dựng một nước Việt Nam mới với các mục tiêu: Hoà bình và độc lập, dân chủ và tự do, dân giàu và nước mạnh, công bằng và văn minh, đoàn kết, hữu nghị và tiến bộ xã hội. Chỉ có khi ấy dân tộc Việt Nam mới có thể ngẩng cao đầu để làm bạn với tất cả mọi người. Chỉ có khi ấy những nụ cười trong niềm vui đoàn viên toàn dân tộc mới thật sự đến. Và cũng để cho những con người Việt Nam đang yêu có thể yêu như những lời tâm sự của chàng RốtSin với nàng Cachia: "Rồi năm tháng sẽ trôi đi, những cuộc chiến tranh sẽ chấm dứt, những cuộc cách mạng sẽ thôi gào thét, chỉ còn lại tấm lòng em dịu dàng, nhẫn nại và tràn đầy tình yêu thương là mãi mãi không phôi pha." (trích trong bộ tiểu thuyết Con Ðường Ðau Khổ của văn hào Nga A.Tolstoi.). Chúng ta đã thấy tình dân tộc được thể hiện thật cảm động trong cơn bão lụt cuối năm 1999 vừa qua. Ðó là tinh thần "lá lành đùm lá rách", cả nước hướng về đồng bào miền Trung ruột thịt, giúp nhau trong cơn nguy khó. Trong đó có những trường hợp phải nói chính xác hơn là "lá rách đùm lá tả tơi" mới đúng. Ðặc biệt hơn chúng ta thấy có những đoàn cứu trợ của đồng bào ta từ nước ngoài về đã đến với các nạn nhân thuộc tỉnh Quảng Bình. (những người trong thời kỳ chiến tranh đã sống ở bờ Bắc của con sông Bến Hải, với cây cầu Hiền Lương lịch sử chia đôi đất nước). Mặc dù rất nhiều người trong số họ đã từng là nạn nhân đau khổ của chế độ cộng sản. Chúng ta cũng thấy đại tá QÐND Việt Nam Phạm Quế Dương cùng một số người khác, đã cố gắng tìm được hài cốt của trung tá Phạm Phú Quốc - phi công thuộc quân lực Việt Nam Cộng Hoà, sau hơn 30 năm máy bay của ông bị rơi trên bầu trời Hà Tĩnh. Và cả những tấm lòng nhân hậu của các má, các chị ở Sài Gòn, đã tự động đứng ra tổ chức những bữa ăn phát không cho bệnh nhân nghèo đang nằm viện. Các chị hiện công tác tại trại tạm giam Hà Nội lại phải đảm nhận thêm việc chăm sóc các cháu bé là con của những phạm nhân nữ, do nhiều hoàn cảnh éo le khác nhau cũng phải vào tù ở với mẹ. Ngoài ra còn rất nhiều những tấm gương khác nữa mà trong một bài viết không thể liệt kê ra hết được. Có lần tôi được nghe một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh SBS của Úc - chương trình Việt ngữ giữa một phóng viên với nhạc sỹ Nguyễn Ðình Toàn hiện đang định cư tại Mỹ : sau năm 1975 cũng như hàng trăm ngàn công chức, sỹ quan khác của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ông phải đi học tập cải tạo và mới rời nước vài năm gần đây, nhưng nay thì ông tâm sự rằng ông buồn và muốn về lại quê hương, khi được hỏi là về để làm gì ? Thì ông trả lời rằng về để ... chết, nhưng chết bây giờ là có thủ phạm chứ không còn âm thầm, uất ức như trước nữa! ("Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên, như dòng sông nước cuộn quanh buồn, như người đi cách mặt xa lòng, ta nhủ thầøm em có nhớù không? Sài Gòn ơi! Ðâu những ngày khi thành phố xôn xao, trong niềm vui tiếng hỏi câu chào, sáng đời tươi thắm vạn sắc mầu, nay còn gì đâu…" - Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên - nhạc sĩ Nguyễn Ðình Toàn). Không ! Ðất nước và dân tộc vẫn còn đó, Sài gòn cũng vẫn còn đó. Chỉ có ai tự đánh mất mình rồi đánh mất Sài gòn, mất đất nước và dân tộc mà thôi. Những người có tấm lòng với quê hương như ông lại càng cần cho đất nước và dân tộc hôm nay. Nhất định một ngày hội lớn của dân tộc sẽ mở ra. Ðể trong ngày vui chung ấy, 80 triệu người Việt Nam sẽ cùng nắm tay nhau mà nghẹn ngào trong niềm vui ban đầu của sự hòa giải và hòa hợp dân tộc. Vì ai cũng cảm thấy tự hào rằng trong chiến công chung ấy đều có phần đóng góp của riêng mình. Một luồng dân khí mới sẽ đến với mọi người Việt Nam. Hàng triệu đồng bào ta từ các nước Ðông, Tây, Bắc Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Úc, New zealand, Liên Xô cũ, ... sẽ cùng trở về trong ngày hội non sông ấy, để cùng với đồng bào ruột thịt của mình ở trong nước hát vang những bài hát hào hùng đã từng có tác dụng đoàn kết muôn triệu người Việt Nam năm nào. Ðó là Quốc Dân Hành Khúc với tên ban đầu là Tiếng Gọi Sinh Viên của nhạc sỹ Lưu Hữu Phước:
Và của Tiến Quân Ca với nhạc sỹ Văn Cao:
Dù sau đó trong cuộc sống đời thường anh hát : Biển mặn, Rừng lá thấp, Người ở lại Charlie, Hát cho một người nằm xuống, Áo lụa Hà Ðông, Ngày tạm biệt, Bây giờ tháng mấy, Nỗi lòng người đi, Thương về miền Trung, Diễm xưa, Ướt mi, Ðêm nhớ về Sài Gòn, Sài Gòn niềm nhớ không tên, v.v … còn tôi hát: Hà Nội niềm tin và hy vọng,Trường Sơn Ðông -Trường Sơn Tây, Việt Nam trên đường chúng ta đi,Tiếng chày trên sóc Bom bo, Những ánh sao đêm, Tình ca, Xuân chiến khu, Vàm cỏ đông, Chào em cô gái Lam hồng, Trước ngày hội bắn, Tình đất đỏ miền Ðông, Mặt trời bé con, Hà Nội mùa vắng những cơn mưa, v.v… thì tất cả cũng đều tốt. Vì mỗi người đều có những sở thích và kỷ niệm vui buồn riêng của mình. "Quốc - Cộng" … đề huề ! Nhưng phải là có điều kiện khi mà những luật chơi công bằng đã được thực hiện. Nếu như số phận đã nghiệt ngã với dân tộc ta hôm qua, thì hôm nay bằng những lá phiếu của mình dân tộc ấy đã có điều kiện bước đầu để "cải số" cho mình. Ðây là một cơ hội lớn để cả dân tộc có thể tránh được việc phải cùng nhau đi "tìm lá diêu bông", "uống xuyên tâm liên", v.v... nhưng ít ai dám khóc lớn, mà chỉ dám khóc thầm. Bạn bè thế giới cũng sẽ đến chung vui cùng chúng ta, họ sẽ thật sự khâm phục chiến công này của dân tộc ta, hơn bất cứ một chiến công dân chủ nào mà dân tộc ấy đã đạt được trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Nó chứng tỏ rằng dân tộc Việt Nam đã đủ trưởng thành cả về trình độ dân chủ và dân trí. Nó sẽ kết hợp với luồng dân khí mới để cùng bắt tay vào xây dựng một đất nước Việt Nam mới, từ điểm xuất phát là diễn biến hòa bình, chứ không phải diễn biến chiến tranh hoặc bạo loạn. Một dân tộc thông minh phải là một dân tộc như vậy. Và cũng bởi vì sau những đau thương mất mát quá lớn lao, có lẽ không có người Việt Nam nào lại muốn đất nước mình tiếp tục rơi vào khủng hoảng, hỗn loạn thêm một lần nữa, để rồi:
Nếu những ai còn có ý định cổ vũ cho bạo lực họ chính là tội phạm của dân tộc, dù ho có bao biện bởi bất cứ lý do nào đi chăng nữa. Thế giới văn minh, luật pháp quốc tế cũng đã từ lâu chống lại điều này. Tôi đã cố gắng trình bày hết cả 5 phần được nêu ra từ đầu của bài viết này. Tôi viết nó một mình chứ không hề "câu kết với các thế lực thù địch" nào. Tôi không phải là một người cầm bút chuyên nghiệp nên viết rất vất vả. Tôi có công việc chuyên môn của mình và tôi yêu thích nó. Giả sử sau này có phải xa nó thì tôi cũng sẵn sàng làm bất cứ công việc nào khác, miễn là lương thiện để sinh sống. Tôi cũng có may mắn hơn nhiều người Việt Nam khác, vì không phải là nạn nhân của chế độ nào. Xong như ông bà ta thường nói: "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách", nếu tôi là một thợ cầy, thợ cấy, thợ lò, thợ mỏ. Một sinh viên, một người lính, một cảnh sát hay một người đã nghỉ hưu bình thường mà để cho quốc gia của mình suy vong như hiện nay thì tôi đã rất đáng trách. Nhưng nếu anh lại tự cho mình là thuộc "tầng lớp sỹ phu" Việt Nam mà cứ im lặng mãi. Hoặc tệ hại hơn là lợi dụng tình trạng lôm nhôm, nhuộm nhạo lúc này để "Ngư ông thủ lợi" thì anh còn đáng trách hơn tôi nhiều lần. (không phân biệt " sỹ phu " trong hay ngoài nước). Bởi vì hễ anh/chị càng có nhiều tri thức bao nhiêu, lại càng có "năng lực tiềm tàng" để "hút" vào mật ngọt và "nhả" ra mật đắng cho đời bấy nhiêu. Nếu tất cả đều im lặng là đồng lõa với tội ác, là nuôi dưỡng sự áp bức như ý tưởng của cố tổng thống Pháp Phơ-răng-xoa Mít-tơ-răng (Francois Mitterrand), và lúc ấy thì:
Xin cảm ơn quý vị độc giả xa gần đã đọc bài viết này. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý vị và các bạn trên các phương tiện thông tin đại chúng về cả 5 phần, nhất là phần 4 với ý kiến về cuộc TCDY. Dù những ý kiến là đồng tình hay không đồng tình đối với tôi cũng rất đáng quý, miễn là chúng ta đến với nhau vì đều cùng có tâm và có tấm lòng yêu đất nước Việt Nam. Tôi hy vọng bài viết này đến được với càng nhiều độc giả càng tốt và cũng sẽ cố gắng gửi nó đến các nhà lãnh đạo trong nước hiện nay, với tư cách là một công dân Việt Nam. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn quý vị độc giả và hẹn gặp lại trong những bài viết tới. Xin cảm ơn các chiến sỹ dân chủ Việt Nam và quốc tế. Cảm ơn nhân dân Thọ Ðà - Hà Nội, Xuân Lộc - Ðồng Nai, Quỳnh Phụ - Thái Bình, Sa Ðéc - Ðồng Tháp và nhiều nơi khác trên khắp đất nước đã tiếp thêm cho tôi kiến thức về dân chủ và lòng tự tin. Xin cảm ơn đất nước Australia thanh bình và tươi đẹp đã cho tôi một môi trường đầy đủ thông tin để hoàn thành bài viết này. Văn hào Nga Boris Pasternak - tác giả cuốn tiểu thuyết Bác Sỹ Zhivago nổi tiếng đã viết: "Cánh rừng, bãi cỏ của mùa đông nước Nga không ai trông thấy cỏ mọc, nhưng một buổi sáng đầu xuân nhìn ra tất cả đã xanh rờn". Những mầm sống cho cái buổi sáng đầu xuân ấy đã, đang và sẽ tiếp tục sinh sôi trên đất nước Việt Nam quê hương tôi. Ðó là quy luật không gì có thể cưỡng lại được ! Phương
Nam - Australia. *
Khi tôi đang chuẩn bị gửi bài này đi thì được biết một tin do các
báo, đài Việt ngữ tại Úc loan tải: 5 nhà đấu tranh dân chủ nổi tiếng
trong nước là các ông Hoàng Minh Chính, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh
Giang, Hoàng Tiến, Trần Dũng Tiến đã cùng ký vào một bức thư đề ngày
19/5/2000 gửi tới các đại biểu Quốc Hội khoá X kỳ 7 để báo động khẩn
cấp: "Tiến sĩ Hà Sỹ Phu (tên thật là Nguyễn Xuân Tụ) ngụ tại
số 4E Bùi Thị Xuân, phường 2, thành phố Ðà Lạt - Lâm Ðồng vừa bị khởi
tố hình sự một cách phi lý và hoàn toàn vô căn cứ, bất chấp các quy
định của luật pháp và hiến pháp". Theo bức thư trên thì anh bị
ghép vào tội danh "phản bội tổ quốc" mà theo bộ luật hình
sự của nước CHXHCN Việt Nam có thể bị kết án từ 7 năm tù đến tử hình.
Anh sinh tại Bắc Ninh năm 1940, tốt nghiệp phó tiến sĩ sinh học tại Viện Hàn Lâm Khoa Học Tiệp Khắc, về nước công tác tại Viện Khoa Học Việt Nam - phân viện Ðà Lạt, nay đã nghỉ hưu. Anh là người đã có những bài viết rất sâu sắc và khách quan về Ý thức hệ cộng sản, cùng hiện tình đất nước như : "Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ" - 1988, "Biện chứng và ngụy biện trong công cuộc đổi mới" - 1989, "Ðôi điều suy nghĩ của một công dân" - 1993 và bài "Chia tay ý thức hệ" - 1995. Trong số đó có những câu : "Không phải như những nguời cộng sản thường nói rằng chủ nghĩa luôn luôn đúng, chỉ có con người thi hành sai, mà ý thức hệ cộng sản sai từ căn bản. Phải từ bỏ ý thức hệ đó thì mới xây dựng được đất nước." và: "Ý thức hệ Mác-xít là một ý thức hệ phong kiến trá hình của triều đại phong kiến cuối cùng, đang kìm hãm sự tiến bộ xã hội và được dùng làm bình phong cho những yếu tố tiêu cực ẩn nấp, … nếu giật bỏ được thì cả cõi Việt Nam này bừng sáng, vì chỉ từ đó mọi việc mới có thể bắt đầu một cách trong sáng, mọi sự vật mới mang ý nghĩa thật của nó.". Tổ
chức quốc tế chuyên đấu tranh cho nhân quyền trên thế giới (Human
Right Watch) cũng phát đi từ New York một bản tuyên bố ngày 31/5/2000,
trong đó có đoạn ghi rõ : "Ðó là sự vi phạm luật quốc tế và vi
phạm hiến pháp Việt Nam". Ðồng thời bản tuyên bố kêu gọi chính
phủ Việt Nam hãy ngưng ngay sự đàn áp này. Nếu như không tìm thấy
chứng cứ gì về việc phạm tội hình sự, mà chỉ tìm thấy những chứng
cứ về sự bày tỏ quan điểm chính trị riêng một cách ôn hoà của công
dân. Nhiều tổ chức, nhiều nhà chính trị, khoa học trên thế giới cũng
đã lên tiếng phản đối sự đàn áp này. Bài
liên hệ:
|
Copyright © 1997-2004 SaigonUSA News. All rights reserved. |