|
545
E. Saint John St.
San Jose, CA 95112
USA
Tel: 408.998.0508
Fax: 408.993.0527
Email:
saigonusanews
@yahoo.com
|
|
|
V
Ă N H Ó A & G I Á O D
Ụ C
Người
Cai Trị và
Tinh Thần Dân Tộc
Phi
Trí-Bất Hưng © talawas
Chinese
protest at Japan embassy in Vietnam
HANOI (Reuters) - April 17-2005. About 50 people held a protest
outside the Tokyo's embassy in Vietnam's capital on Sunday, shouting
anti-Japanese slogans and demanding Japanese leave the country.
The protesters, wearing headbands and holding a large banner written
in English and Chinese characters, stood on the sidewalk in front
of the embassy and shouted slogans through a loud hailer. One
banner read: "Japan out".
The protesters are believed to be Chinese living in Vietnam.
Police and local militia stood nearby, holding back a small crowd
of onlookers. Protests are rare in communist Vietnam.
The demonstration comes after successive weekends of violent protests
in China over Japan's wartime past. The Chinese are furious at
a revised Japanese school textbook they say whitewashes atrocities
during Japan's 1931-45 occupation of China and at Tokyo's bid
for a permanent seat on the U.N. Security Council. |
Những ngày gần đây,
các cuộc biểu tình chống Nhật rầm rộ của người Hoa, được sự cổ vũ của
nhà cầm quyền Trung Quốc, đã bất ngờ nhập khẩu sang cả nước láng giềng
môi hở răng lạnh. Ngay ở giữa lòng Hà Nội, nơi biểu tình thuộc về một
kí ức xa xưa, ngày 17/4/2005, người Hoa đã tụ tập đông đảo trước sứ
quán Nhật (dường như với sự chấp thuận của giới lãnh đạo Việt Nam) [1]
. Đầy đủ biểu ngữ và khăn bịt đầu. Hằn học và hống hách, họ hô vang
“Japan out!” (Nhật cút đi!) [khỏi Việt Nam?]. Tân Hoa xã không bỏ lỡ
cơ hội quảng cáo. Các hãng thông tấn phương Tây (như Reuter, VOA) cho
đến Hồi giáo (Arab Times) [2] , hẳn vì hiếu kì, đã tốn công đưa tin
về cuộc biểu tình kì quặc. Liệu người Hà Nội liệu có ngỡ ngàng thấy
đất Thăng Long Đông Đô đột nhiên thành sân sau cho thói bài Nhật hung
hăng và cơ hội của người Tàu? Liệu người Việt Nam có thấy anh láng giềng
phương Bắc sẵn sàng thí quan hệ hữu hảo Nhật Việt vì lợi ích của anh
ta?
Lịch sử thật nghiệt ngã và trớ trêu, cuộc biểu tình
chống Nhật của người Tàu ở Hà Nội diễn ra đúng ngày giỗ 100 ngày các
ngư dân Việt Nam bị hải quân Trung Hoa xả súng giết hại (8/1/2005).
Nỗi đau ngậm miệng và bị buộc ngậm miệng còn chưa phai. Những ý tưởng
manh nha về một biểu tình hòa bình để bảo vệ nạn nhân dù bị dập tắt
nhưng còn âm ỷ đó.
Xin hãy tạm gạt ra một bên những toan tính mưu bá đồ vương của hai đại
cường, để chiêm nghiệm từ sự kiện tuy quy mô không lớn, nhưng chưa từng
có trong lịch sử Việt Nam. Lùi lại, ta sẽ thấy đối diện với hoàn cảnh
giống nhau, hai nhà cầm quyền đã phản ứng ngược hẳn nhau.
Cuộc
biểu tình của người Tàu và những cuộc biểu tình vắng mặt của người Việt
trên đất Việt Nam diễn ra gần nhau. Những tình cảm cũng khá tương đồng.
Với người Việt-với một ngàn năm đô hộ, và những cuộc xâm lăng định kì
của Trung Hoa-sự kiện Ngày Mùng Tám Tháng Một Đen Tối là giọt nước tưởng
chừng làm tràn ly. Với người Hoa, vốn tự thị rằng mình là trung tâm
vũ trụ, vẫn chưa nguôi nỗi nhục bị chiếm đóng bởi Vương quốc Mặt trời
trong những năm Thế chiến II, biện minh lịch sử của người Nhật khiến
họ nổi cáu. Hai đảng cầm quyền ở hai nước cũng tương đồng về mặt bản
chất.
Nhưng, cách hành xử của hai bên hoàn toàn trái ngược. Một bên nhanh
chóng lợi dụng sự trỗi dậy của tinh thần dân tộc để lôi kéo quần chúng
về phía mình, củng cố tính chính đáng (legitimacy) của mình. Một bên
thì nhanh chóng bằng mọi cách dập tắt phản ứng yếu ớt của dân chúng.
Sự khác biệt trong cách hành xử xuất phát từ những đặc điểm tương đồng
hiển nhiên như thế đặt ra một câu hỏi đáng suy ngẫm.
Không thể lý giải sự khác biệt này đơn thuần theo góc độ tương quan
sức mạnh dân tộc theo kiểu so sánh quy mô dân số, diện tích lãnh thổ,
tiềm lực quân sự hay số thu nhập quốc dân hàng năm. Trong một môi trường
quốc tế đa cực và hợp tác như hiện nay, không có chuyện sự phản ứng
một cách hòa bình của dân chúng ở một quốc gia lại được sử dụng như
là lý do để quốc gia khác tiến hành chiến tranh thôn tính. Bài viết
này hướng đến một sự giải thích khác, xuất phát từ quan hệ giữa người
cai trị và tinh thần dân tộc. Trong phần viết dưới đây, khái niệm “người
cai trị” được hiểu là những thế lực chính trị lãnh đạo xã hội không
dựa trên sự ủy thác của dân chúng thông qua bầu cử dân chủ mà được bảo
đảm bằng bạo quyền và đàn áp.
Trước hết, cần ý thức rõ rằng không phải tinh thần dân tộc dưới hình
thức nào cũng mang tính tích cực, và vì vậy, cũng đáng được khuyến khích
như nhau. Có tinh thần dân tộc là một yếu tố tích cực cho phát triển,
đem lại lối sống hòa thuận giữa những người đồng bào, khơi được sức
dân để duy trì và phát triển những tài sản chung (cả hữu hình và vô
hình) của dân tộc. Ngược lại, tinh thần dân tộc sẽ trở thành một yếu
tố mang tính tự hủy diệt, và vì thế không đáng được khuyến khích nếu
nó khơi dậy lòng tự mãn dân tộc, đánh thức cho các tư tưởng cực đoan,
phát xít, bành trướng; châm ngòi cho các hành vi bạo lực, phi nhân bản;
cô lập mình với cộng đồng quốc tế.
Trong thời đại ngày nay, người cai trị không còn có thể tự vỗ ngực tự
xưng “phụng thiên thừa vận”. Vai trò lãnh đạo xã hội nếu không phải
do dân chúng giao phó thì buộc phải dựa vào bạo quyền từ trên xuống.
Là một nhà cai trị mà nền tảng quyền lực không dựa trên tính chính đáng
(legitimacy), thì mục đích tối hậu của người cai trị không đồng nhất
với mục tiêu phát triển của dân tộc. Lúc vững mạnh, nó tìm mọi cách
mê hoặc đám đông vào những trò không tưởng. Lúc suy yếu, mọi nỗ lực
của nó chỉ là để kéo dài sự thống trị đang hấp hối (và thường là khi
vùng vẫy lại tự đào huyệt chôn mình).
Vì vậy, kêu gọi hoặc thúc đẩy tinh thần dân tộc không
phải và không bao giờ là mục đích tự thân của người cai trị. Ngược lại,
lòng tự hào dân tộc trong sáng, với chức năng tự nhiên của nó là đem
lại sự tự tin, dũng khí và tự trọng nơi mỗi người dân, khi được khơi
dậy và thổi bùng lên, sẽ đem đến cho chính những người bị đàn áp một
công cụ mạnh để lật đổ bạo quyền, phi lý và dọn đường cho dân tộc tiến
lên. Do vậy, có thể nói rằng lòng tự hào dân tộc trong sáng là kẻ thù
của người cai trị.
Mâu thuẫn giữa lòng tự hào dân tộc trong sáng và sự thống trị của người
cai trị căng thẳng đến đâu tùy thuộc vào khả năng của người cai trị
trong vai trò là lực lượng dẫn dắt sự tiến bộ của xã hội. Kẻ cai trị
càng là người dẫn dắt tồi bao nhiêu, thì mâu thuẫn ấy càng nghiêm trọng
bấy nhiêu; và hắn ta càng căm ghét và sợ hãi lòng tự hào dân tộc trong
sáng bấy nhiêu. Trong trường hợp đó, với tham vọng duy trì sự thống
trị bằng mọi giá, người cai trị có thể chủ động săn lùng và thủ tiêu
các yếu tố có tiềm năng khơi dậy tự hào dân tộc.
Ngược lại, khi đủ năng lực đóng vai một người dẫn dắt
hiệu quả, người cai trị sẽ có đủ tự tin về tính chính đáng của vai trò
lãnh đạo xã hội của mình. Và vì vậy, trong một chừng mực nhất định,
người cai trị có thể cho phép dung dưỡng lòng tự hào dân tộc trong sáng.
Không có gì thuận lợi hơn cho người cai trị bằng một xã hội mà trong
đó mọi người thờ ơ, thậm chí quay lưng lại với chính trị; nơi không
tồn tại những khối gắn kết mà chỉ có những cá nhân lo chạy theo lợi
ích riêng của mình; nơi không tồn tại các bản sắc chung, hoặc những
bản sắc này không được thừa nhận rộng rãi; một xã hội rệu rã.
Tuy nhiên, không phải người cai trị nào cũng gặp may mắn đó. Những xã
hội trải qua hàng ngàn năm, cư dân của nó đã từng kề vai sát cánh để
xây dựng nên một bản sắc độc đáo, nơi sự gắn kết đã được thử thách nhiều
lần trong lịch sử tồn tại, thì lòng tự hào dân tộc là một yếu tố luôn
ngầm chảy. Dưới bạo quyền của kẻ thống trị, lòng tự hào này có thể lắng
xuống đáy sâu trong tâm thức mỗi người dân. Nó có thể bị che đậy bởi
nỗi khiếp nhược thường ngày. Tuy nhiên, khi có cơ hội, thì nó sẽ lại
trỗi dậy.
Kẻ cai trị hiểu được điều này. Và với những kẻ cai trị kém cỏi trong
vai trò lãnh đạo xã hội, thì lo sợ trước tính chính đáng ngày càng mai
một, y một mặt tìm cách tiêu diệt từ trong trứng nước những biểu hiện
có thể khơi dậy lòng tự hào dân tộc trong sáng, một mặt tìm cách ngụy
tạo hoặc thổi phồng những biểu trưng hoặc sự kiện cần thiết để đưa mình
vào như là một phần không thể thiếu của khối gắn kết dân tộc bền vững
ấy.
Đảng Cộng sản Việt Nam, bằng cách ép Quốc hội đưa độc quyền lãnh đạo
của đảng vào hiến pháp, đã chính thức thừa nhận nền tảng quyền lực của
mình không phải thông qua sự giao phó của dân chúng mà thông qua sự
áp đặt bằng bạo quyền. Cũng giống như bất kỳ một kẻ cai trị nào khác,
mục đích của họ là tìm cách níu kéo quyền lực bất chính của họ. Tuy
nhiên, không thành công trong vai trò dẫn dắt xã hội, người cai trị
không có được cái tự tin cần phải có khi đối diện với dân tộc. Thêm
vào đó, dân tộc Việt lại là một dân tộc có truyền thống quật cường.
Hai đối lực này đẩy người cai trị vào thế bị động và buộc phải tự vệ.
Họ buộc phải tiếp tục đàn áp và bóp chết mọi phôi thai của phong trào
độc lập và tiến bộ. Sự kiện sinh viên và giới trẻ trong nước phản ứng
trước việc hải quân Trung Quốc xả súng thảm sát ngư dân Việt nam là
một thí dụ điển hình. Một phong trào tiến bộ, xuất phát từ lòng tự hào
dân tộc trong sáng như thế, chưa kịp ra đời thì đã bị bóp chết. Các
trang web nơi sinh viên bày tỏ quan điểm và liên kết tổ chức bị đóng
cửa; quyết định cấm tụ họp-biểu tình được đưa xuống từng trường Đại
học; cảnh sát thường xuyên túc trực đông đảo trước Đại sứ quán Trung
Quốc đề phòng mọi bất trắc. Sự khủng bố đó nhanh chóng phủ một màn mây
đen lên lòng tự hào dân tộc trong sáng và nhấn chìm dũng khí của thế
hệ trẻ - vốn rất dễ bị tổn thương sau nhiều thập kỷ mòn mỏi [3] .
Không chủ động sử dụng được dòng chảy của tinh thần dân tộc trong sáng,
người cai trị tự ngụy trang mình như là một bộ phận của dòng chảy. Họ
liên tục ca ngợi những thành tựu đạt trong quá khứ xa xôi, mục đích
hiển nhiên là muốn dân chúng coi các thành tựu ấy như thể là khối kết
tinh của tinh thần và tinh hoa dân tộc. Không ngừng tô vẽ hình ảnh của
lãnh tụ hòng biến một con người thế tục thành một đấng linh thần; chủ
động phục hưng lại một số di sản và giá trị của dân tộc mà họ trước
đây từng ghẻ lạnh và khinh thị, họ muốn đưa tên mình vào chính đạo của
dân tộc thông qua con bài độc quyền tuyên truyền. Không tìm được con
đường thực sự đưa họ về với dân tộc, phải viện đến các phương pháp tuyên
truyền và bưng bít thông tin – trong một xã hội mà sự hiểu biết của
người dân ngày càng cao, thông tin ngày càng đa chiều – người thống
trị đã và đang tiếp tục thất bại trong việc lừa phỉnh đồng bào mình
và ngày càng tách xa khỏi chính dân tộc mà họ từng là một phần và hiện
đang thống trị.
Cùng một bản chất, nhưng khác về năng lực, nhà cầm quyền Trung Quốc
có lẽ đã tự tin hơn trong quan hệ với dân tộc họ. Điều này lý giải tại
sao trong những ngày gần đây họ đã chủ động vận động ban đầu, sau đó
cho phép, các cuộc biểu tình quy mô lớn ở khắp nơi trên đất TQ chống
lại Nhật Bản. Hiện tại, chúng đang là tiêu điểm thể hiện của tinh thần
dân tộc Trung Hoa.
Tuy vậy, xuất phát từ chỗ nhà cầm quyền TQ muốn sử dụng những sự kiện
này như là một phương pháp để kéo dài quyền lực của họ, có nguy cơ là
họ đã bôi nhọ quá đáng hình ảnh của “kẻ địch” nhằm hướng sự giận dữ,
vốn chất chứa trong xã hội từ nhiều năm, vào con vật tế thần này. Sự
giận dữ mù quáng, dựa trên những lý do ngụy tạo hoặc phóng đại, có khả
năng đưa dân tộc họ đến với tinh thần tự mãn dân tộc và chủ nghĩa cực
đoan, đến các khuynh hướng mang tính hủy diệt và tự cô lập.
Một nguy cơ khác cho chính nhà cai trị TQ là các cuộc biểu tình này
đã khuyến khích sự phát triển không được mong đợi của các phong trào
độc lập. Cả lý thuyết và thực tế đã chứng minh sự phát triển của các
phong trào độc lập là kẻ thù nguy hiểm của các chế độ toàn trị; và với
việc nổ ra liên tiếp các cuộc biểu tình-không do nhà nước tổ chức-như
hiện nay, sự nảy nở các nhóm, hiệp hội độc lập với nhà nước, có khả
năng liên kết, huy động nguồn lực và phối hợp hoạt động là gần như tất
yếu. Trong trường hợp nhà cai trị TQ thất bại trong việc kiểm soát sự
phát triển của các phong trào độc lập bắt nguồn từ những cuộc biểu tình
tự phát dựa trên chủ nghĩa dân tộc, đồng thời nếu dân tộc Trung Hoa
đủ bản lĩnh để vượt qua những nóng giận cảm tính và hướng tinh thần
dân tộc theo các giá trị nhân bản và công lý, thì những phong trào như
hiện nay, thay vì giúp ĐCSTQ kéo dài sự cầm quyền như họ mong đợi, lại
có thể dẫn đến sự ra đời của một nền dân chủ mới.
Như thế, sự khác biệt trong việc chọn lựa hình thức đối phó với tinh
thần dân tộc ở hai thế lực thống trị ở Việt Nam và Trung Quốc được giải
thích bằng sự khác biệt trong năng lực của mỗi bên. Kém cỏi trong vai
trò dẫn dắt dân tộc, lo sợ trước khoảng chân không ở nền móng của sự
tồn tại chính đáng của mình, giới lãnh đạo Việt Nam lựa chọn phương
pháp tiêu cực là đàn áp mọi nỗ lực khơi dậy tinh thần dân tộc một cách
tự phát. Tự tin hơn về tính chính đáng trong vai trò lãnh đạo, giới
lãnh đạo Hoa Lục cho phép và sử dụng sự trỗi dậy của tinh thần dân tộc
như là một công cụ để củng cố và kéo dài độc quyền lãnh đạo. Cách hành
xử hèn nhát của giới lãnh đạo Việt Nam khiến họ ngày càng bị dân tộc
khinh ghét; cách hành xử của giới lãnh đạo Trung Quốc tạo điều kiện
cho sự phát triển của các phong trào dân sự độc lập. Dù chọn lựa phương
pháp nào, thì một kết quả hầu như không thể tránh khỏi là nền móng cho
việc duy trì sự thống trị độc tôn của họ sẽ càng bị lung lay.
Tháng Tư, 2005 © talawas
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Chỉ vài tuần trước, Chính phủ VN vừa ban hành nghị
đinh số 38/2005, quy định việc tập trung đông người nơi công cộng phải
được phép của cơ quan địa phương có thẩm quyền. Việc tụ tập đông đảo
của người Hoa trước cửa sứ quán Nhật trong khi cảnh sát VN làm ngơ bỏ
qua chứng tỏ rằng cuộc biểu tình này đã được sự chấp thuận từ phía nhà
nước.
[2]http://news.xinhuanet.com/english/2005-04/18/content_2844015.htm
http://www.voanews.com/english/2005-04-17-voa9.cfm
http://www.arabtimesonline.com/arabtimes/breakingnews/view.asp?msgID=8659
[3]Xem “Hơn 20 anh hùng của một dân tộc đang rệu rã” của Phạm Việt Vinh,
đăng trên talawas ngày 12 tháng 4 năm 2005.
Bài
liên hệ:
Trung Cộng vi phạm
công pháp quốc tế trong vụ bắn chết 9 ngư dân Việt Nam tronh hải phận
VN
Hòa Lộc, một vụ khiêu
khích đầy chủ đích
Tình hình Biển Đông
Chúng tôi cần một sự
công bằng
Nhân Biến Cố Vịnh Bắc Việt ngày
8 tháng 1 năm 2005, thử tìm hiểu sự thất bại của Hải Quân Trung Hoa
qua trận thủy chiến với Nhật Bản vào hậu bán thế kỷ 19
Nhà cầm quyền Việt
Nam đối ngoại hèn nhát-đối nội gian manh xuẩn động
Công
hàm bán nước (thừa nhận chủ quyền Trung Cộng trên vịnh Bắc Bộ)
Đừng bao giờ đùa với
những nỗi đau như thế
SaigonUSA
hoan nghênh ý kiến đóng góp của qúy vị độc giả. Xin type vào Comment Box
ở dưới đây và nhấn vào nút "Submit" để gởi đi:
RETURN
TO FRONT PAGE
|
|
|